Khoản 3 Điều 36 Nghị định 134/2026/NĐ-CP quy định cơ sở xác định hàng hóa NK để sản xuất, kinh doanh nhưng đã XK sản phẩm được hoàn thuế. Theo đó quy định: “tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa XK có cơ sở sản xuất hàng hóa XK trên lãnh thổ Việt Nam; có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với máy móc, thiết bị tại cơ sở sản xuất phù hợp với nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK để sản xuất hàng hóa XK.
Trị giá hoặc lượng nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK được hoàn thuế là trị giá hoặc lượng nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK thực tế được sử dụng để sản xuất sản phẩm thực tế XK. Sản phẩm XK được làm thủ tục hải quan theo loại hình sản xuất XK; tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc ủy thác NK hàng hóa, XK sản phẩm. Người nộp thuế có trách nhiệm kê khai chính xác, trung thực trên tờ khai hải quan về sản phẩm XK được sản xuất từ hàng hóa NK trước đây”.
Cũng tại điểm h khoản 2 Điều 12 Nghị định 134/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 6 Điều 1 Nghị định 18/2021/NĐ-CP quy định: “Sản phảm NK tại chỗ đăng ký tờ khai hải quan theo loại hình nhập gia công được miễn thuế NK nếu người NK tại chỗ đáp ứng quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 10 Nghị định này. Sản phẩm NK tại chỗ đăng ký tờ khai hải quan theo loại hình khác thì người NK tại chỗ kê khai, nộp thuế theo mức thuế suất và trị giá tính thuế của sản phẩm NK tại thời điểm đăng ký tờ khai.
Trường hợp người NK tại chỗ đã nộp thuế NK hàng hóa để sản xuất, kinh doanh, đã đưa sản phẩm NK tại chỗ vào sản xuất hàng hóa XK và thực tế đã XK sản phẩm ra nước ngoài hoặc vào khu phi thuế quan thì được hoàn thuế NK đã nộp theo quy định tại Điều 36 Nghị định này”.
Đối chiếu với các quy định hiện hành, khi làm thủ tục XK sản phẩm được sản xuất từ hàng hóa NK để sản xuất, kinh doanh, người nộp thuế phải kê khai trên tờ khai XK về việc sản phẩm XK được sản xuất từ hàng hóa NK trước đây.
Cơ quan Hải quan nơi tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế có trách nhiệm kiểm tra, xác định các điều kiện hoàn thuế để xử lý theo quy định.