Hotline (028) 39435899
Ngôn ngữ
flag enflag vi
interlogistics logo

TỔNG THUẬT: Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư Đồng bằng sông Cửu Long

Blog/Chính trị/Thời sự

(Chinhphu.vn) - Sáng 21/6, tại Thành phố Cần Thơ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức.


Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan đã rất nỗ lực xây dựng và phê duyệt quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và triển khai Luật Quy hoạch nói chung. Ngày 21/6, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030. Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long lần này là quy hoạch vùng đầu tiên được ban hành theo Luật Quy hoạch, thể hiện “tư duy mới, tầm nhìn mới, giá trị mới, cơ hội mới” cho tương lai phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là trong bối cảnh thích ứng biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Tham dự Hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn; Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long.


Đại diện 6 ngân hàng phát triển (ADB, KEXIM, AFD, KfW, JICA và WB) cam kết tài trợ thực hiện một số chương trình, dự án phát triển hạ tầng triển khai thực hiện Quy hoạch - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tại Hội nghị, đã diễn ra lễ trao Hồ sơ quy hoạch cho lãnh đạo 13 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long và công bố cam kết tài trợ thực hiện một số chương trình, dự án phát triển hạ tầng triển khai thực hiện Quy hoạch.

Đây là nội dung thiết thực, có ý nghĩa trong việc hiện thực hóa Quy hoạch vùng và Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, 13 tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và nhóm 6 ngân hàng phát triển (bao gồm: ADB, KEXIM, AFD, KfW, JICA, WB) thống nhất danh mục dự án phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu dự kiến thực hiện trong giai đoạn 2021 - 2025. Đến nay, toàn bộ các dự án của hai Bộ và 13 tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được nhóm 6 ngân hàng phát triển bày tỏ quan tâm; với mức vốn cam kết vào khoảng 2,2 tỷ USD. 

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, khoản tài trợ 2,2 tỷ USD có vai trò là nguồn vốn "mồi" để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài. 

Lễ trao Hồ sơ Quy hoạch và công bố cam kết tài trợ đã cụ thể hóa bước đầu tiên của quy trình thủ tục, thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc tăng cường đầu tư, tạo bước đột phá về hạ tầng trong vùng cũng như thể hiện sự cam kết của các nhà tài trợ./.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu kết luận và chỉ đạo Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu kết luận và chỉ đạo Hội nghị:

Hôm nay, trong bối cảnh dịch bệnh đã được kiểm soát trên cả nước, mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội đang được phục hồi, phát triển; tôi rất vui mừng tham dự Hội nghị với nhiều nội dung quan trọng đối với vùng ĐBSCL.

Có thể nói chúng ta tổ chức Hội nghị này để tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị ngày 02/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL. Hội nghị 5 trong 1 này là sáng kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, bao gồm: (1) Công bố Chương trình hành động của Chính phủ về phương hướng phát triển KTXH và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị; (2) Công bố quy hoạch vùng ĐBSCL theo quy định của Luật Quy hoạch và xúc tiến đầu tư cho vùng ĐBSCL; (3) Giới thiệu Chỉ thị về một số nhiệm vụ thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu; (4) Công bố các cam kết tài trợ quốc tế; (5) tổ chức triển lãm, quảng bá hình ảnh, vùng đất văn hóa, con người vùng ĐBSCL. Đó là những nội dung chính mang nhiều kỳ vọng, niềm tin của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong việc thúc đẩy phát triển KTXH vùng ĐBSCL; có ý nghĩa rất lớn, quan trọng, thiết thực nhằm cụ thể hóa, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các Nghị quyết, chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta về phát triển vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2045.

Tôi ghi nhận, biểu dương nỗ lực và quyết tâm cao của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành và các địa phương vùng ĐBSCL, các đối tác quốc tế đã phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị chu đáo cho việc tổ chức Hội nghị quan trọng này.

Tôi đánh giá cao sự có mặt của đại diện các đối tác phát triển, các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân, nhà đầu tư trong và ngoài nước, các chuyên gia, nhà khoa học, các viện nghiên cứu và cơ quan báo chí cùng toàn thể quý vị đại biểu dự Hội nghị. Tôi tin tưởng rằng Hội nghị sẽ góp phần khơi thông, huy động các nguồn lực, là sự khởi nguồn thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của ĐBSCL trong thời gian tới.

Chúng ta đã có một buổi sáng làm việc hết sức tích cực, hiệu quả, với tinh thần thẳng thắn, xây dựng và cởi mở. Các báo cáo đã được lãnh đạo các bộ trình bày rõ, ngắn gọn, đầy đủ; các tham luận và nhiều ý kiến phát biểu rất sâu sắc, khách quan, trách nhiệm, tâm huyết, khoa học và thực tiễn, cũng như đã đề xuất nhiều giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả.

Nhưng để trở thành hiện thực, chúng ta đã quyết tâm rồi, phải quyết tâm hơn nữa; đã cố gắng, nỗ lực rồi, phải cố gắng, nỗ lực hơn nữa; hành động quyết liệt, trọng tâm hơn nữa để thực sự có sản phẩm, kết quả, mang lại hạnh phúc, ấm no nhiều hơn cho nhân dân vùng ĐBSCL. Khi đó, chúng ta mới có thể tự tin nói Hội nghị rất thành công.

Về vị trí, vai trò, tiềm năng, thế mạnh của ĐBSCL:


Thủ tướng Phạm Minh Chính: ĐBSCL giữ vị thế hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, trong giao thương với các nước ASEAN và Tiểu vùng sông Mekong - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

ĐBSCL giữ vị thế hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, trong giao thương với các nước ASEAN và Tiểu vùng sông Mekong; có nhiều tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh:

- Có diện tích tự nhiên và dân số lớn: gần 4 triệu km2 (khoảng 13% diện tích cả nước), dân số khoảng 18 triệu người (19% dân số cả nước); hiện nay đóng góp khoảng 12% vào GDP của cả nước.

- Có tiềm năng về địa hình phát triển giao thông: Có đường bờ biển dài 700km và trên 360 nghìn km vuông vùng biển và vùng đặc quyền kinh tế. Có tiềm năng kết nối, thông qua các cảng tại TP. Hồ Chí Minh và cụm cảng Cái Mép - Thị Vải trên địa bàn tỉnh của Bà Rịa - Vũng Tàu, với các thị trường Đông Á, châu Âu, Mỹ... Đồng thời, vùng ĐBSCL nằm trong khu vực có các tuyến hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng.

- Thuận lợi phát triển nông nghiệp với hơn 2,5 triệu ha đất nông nghiệp (chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả vùng) được bồi đắp phù sa màu mỡ, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước, thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho 65% dân cư của vùng (Chiếm 31,37% GDP toàn ngành nông nghiệp, đóng góp tới hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước).

Bên cạnh đó, ĐBSCL có thế mạnh về phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, công nghiệp thực phẩm, đặc biệt phát triển du lịch quanh năm và các ngành dịch vụ khác.  

Đầu tư vào ĐBSCL ngày càng được quan tâm hơn: Tổng mức đầu tư từ ngân sách nhà nước đầu tư qua địa phương vùng ĐBSCL ngày càng tăng; giai đoạn 2016-2020 đạt gần 200 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 9 tỷ USD) chiếm khoảng 16% tổng đầu tư ngân sách nhà nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của các Bộ, ngành và địa phương hỗ trợ vùng ĐBSCL là trên 318 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 13,8 tỷ USD); tăng khoảng 5 tỷ USD so với thời kỳ trước, tập trung vào hạ tầng chiến lược. Có lẽ trong nhiệm kỳ này, ĐBSCLđược ưu tiên cao nhất và điều này là hoàn toàn xứng đáng.

Đặc biệt, đây là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng anh hùng của nhân dân; là địa bàn sinh sống, gắn bó đoàn kết lâu đời của cộng đồng các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm... tự lực, tự cường; năng động, sáng tạo; chân tình, cởi mở, phóng khoáng.

Với những đặc điểm đó, ĐBSCL thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là "Vùng cực Nam - Thành đồng của Tổ quốc", cửa ngõ phía Tây Nam của quốc gia, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng cần được phát huy cao hơn, và tiềm năng, lợi thế to lớn cần được phát triển thành nguồn lực, cần được khai thông, tháo gỡ có hiệu quả hơn nữa.

Về những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức:

Tuy vậy, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận, ĐBSCL vẫn còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức; chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của mình, tiềm năng thì lớn nhưng cơ chế, chính sách còn hạn hẹp; phần đóng góp của vùng vào kết quả chung của cả nước vẫn còn hạn chế.

- Nếu lấy con người là trung tâm, chủ thể, động lực, mục tiêu, là nguồn lực cho sự phát triển của ĐBSCL thì đây cũng là điểm nghẽn lớn nhất. Đặc biệt là vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; nhất là cán bộ các cấp cần phải năng động, sáng tạo, tự tin, tận tụy, trăn trở nhiều hơn nữa. Nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, tỷ lệ lao động vùng qua đào tạo khoảng hơn 15%, thấp hơn nhiều so với trung bình chung cả nước (năm 2020, cả nước có tỷ lệ 64,5% lao động qua đào tạo, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ đạt 24,5%).

Quy mô kinh tế nhỏ chỉ chiếm 12,08% GDP của cả nước; thu nhập bình quân đầu người bằng khoảng 67% so với bình quân chung cả nước (53,98 so với 80,21 triệu đồng/người). Tỷ lệ đô thị hóa thấp hơn cả nước (27,2%, cả nước là 40,5%).

Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, thiếu và yếu: Trước hết, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, chất lượng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, chuyển tải của cải vật chất được sản xuất tại vùng ra cả nước và thế giới; thiếu cảng biển nước sâu để kết nối với quốc tế; thiếu các trung tâm tiếp vận và kho vận của vùng; giao thông đường thủy nội địa chưa được phát huy; hạ tầng thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn. Hạ tầng về y tế, giáo dục còn chưa đồng đều, yếu kém ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.

Không đồng đều về môi trường đầu tư kinh doanh; các chỉ số về cải cách hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công, chuyển đổi số thấp hơn so với các vùng khác trong cả nước. Liên kết vùng còn chưa thực sự chặt chẽ và hiệu quả.

- Thu hút FDI còn thấp: (đứng thứ 4/6 các vùng), đầu tư tư nhân chưa nhiều. Xây dựng nông thôn mới còn chậm, số xã đạt chuẩn nông thôn mới là 48,29%, trong khi cả nước đạt 54%.

Du lịch, dịch vụ chưa phát triển: Phần lớn các địa phương mới chỉ tập trung khai thác sản phẩm du lịch sông nước, miệt vườn, thiếu cơ sở lưu trú chất lượng cao để đón khách quốc tế và các dịch vụ khác liên quan du lịch.

Cải cách hành chính, chuyển đổi số chưa thực sự mạnh mẽ và hiệu quả, cần rất nhiều sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư thỏa đáng, phù hợp, hiệu quả.

- Là một trong những khu vực địa lý chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu trên thế giới, như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn do mực nước biển dâng cao, sạt lở bờ sông, nước dâng do bão lũ và các rủi ro liên quan đến khí hậu khác…

Tinh thần tự tin, tự lực, tự cường vươn lên từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của vùng cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.

Về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển vùng ĐBSCL:


Thủ tướng đề nghị các đối tác phát triển, các nhà khoa học, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục chung tay, chung sức, đồng lòng, đồng hành cùng Chính phủ trong các hoạt động phát triển ĐBSCL thịnh vượng và thích ứng với biến đổi khí hậu - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL, như: Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu; Nghị quyết số 78/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị; Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 324/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL… Từ đầu nhiệm kỳ tới nay, chúng ta cũng đã tổ chức rất nhiều hội nghị, hội thảo để bàn về ĐBSCL.

- Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ cũng có cơ chế, chính sách đặc thù cho Cần Thơ - trung tâm của vùng: Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 45/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết 98/NQ-CP của Chính phủ về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045…

- Đã thành lập Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025 do đồng chí Lê Văn Thành, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch và 4 Bộ trưởng làm Phó Chủ tịch; kèm theo là quy chế hoạt động. Đây là Hội đồng điều phối vùng đầu tiên của cả nước.

Như vậy, chủ trương của Đảng tới việc thể chế hóa bằng các cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bố trí nguồn lực, tổ chức thực hiện… với ĐBSCL đều có hệ thống và rất tích cực, vấn đề là các địa phương, các bộ ngành, tổ chức quốc tế cùng Chính phủ tổ chức thực hiện có hiệu quả, thực chất.

Về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp:

Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đưa ra 6 quan điểm phát triển ĐBSCL; trong đó tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Yêu cầu phải phát triển nhanh và bền vững, phù hợp với vị trí, vai trò chiến lược của vùng; coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt, trọng tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của các địa phương trong vùng và cả nước. Phải đặt vấn đề phát triển vùng trong tổng thể phát triển chung của cả nước, bảo đảm phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, thống nhất với hệ thống quy hoạch quốc gia; phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, thích ứng với biến đổi khí hậu…

Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể: Tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Quy mô nền kinh tế đến năm 2030 gấp 2 - 2,5 lần so với năm 2021. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng thu nhập vùng (GRDP) khoảng 20%; công nghiệp - xây dựng khoảng 32%; dịch vụ khoảng 46%; GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 146 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 42 - 48%; có 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 30% số xã đạt chuẩn nâng cao.  

Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, chúng ta cần có cách tiếp cận tổng thể; triển khai với những biện pháp, giải pháp cụ thể, thiết thực, hiệu lực, hiệu quả. Tôi cơ bản thống nhất với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đồng chí. Với tinh thần "Cả nước vì vùng và vùng vì cả nước" như chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi đề nghị:

(1) Về quan điểm chỉ đạo chung:

- Cần quán triệt nghiêm túc, thực hiện quyết liệt, hiệu quả, thực chất các nhiệm vụ, giải pháp đề ra nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng ĐBSCL theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành (Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn; Chiến lược quốc gia phòng, chống thiên tai; Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp; 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi); Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu…). Các địa phương phải cụ thể hóa và tập trung chỉ đạo, lãnh đạo, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, sự đồng lòng ủng hộ của Nhân dân, bạn bè quốc tế.

- Theo dõi sát, nắm chắc tình hình và yêu cầu thực tiễn. Công tác chỉ đạo, điều hành phải bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Đặc biệt coi trọng việc thích ứng với tự nhiên. Kiên định mục tiêu xuyên suốt nhưng phải hết sức linh hoạt, sáng tạo, bảo đảm hiệu quả, kịp thời. Đồng thời, xác định một số trọng tâm, trọng điểm; làm đến đâu thì phải chắc đến đó, việc nào phải xong việc đó.

- Phát huy mạnh mẽ các yếu tố nội lực, nhất là con người, truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa, tinh thần tự lực, tự cường, đi lên từ bàn tay, khối óc, khung trời, mảnh đất, cửa biển của mình, kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữ nguồn lực bên trong (với ba trụ cột là con người, thiên nhiên, truyền thống văn hóa-lịch sử) là cơ bản, lâu dài, chiến lược, quyết định, với nguồn lực bên ngoài (gồm nguồn vốn, công nghệ, năng lực quản trị…) là quan trọng, đột phá, thường xuyên.

- Thống nhất nhận thức và hành động, phương châm là: suy nghĩ phải kỹ lưỡng, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Đối với những vấn đề đột xuất, bất ngờ phải nắm bình tĩnh, bám sát thực tiễn và căn cứ chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để có giải pháp phù hợp, xử lý đạt hiệu quả cao nhất. Vấn đề càng khó, càng phức tạp thì càng phải giữ đúng nguyên tắc, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ tập thể, lắng nghe ý kiến của nhau, kể cả những ý kiến trái chiều để xem xét, quyết định.

- Tăng cường phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; có biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát hiệu quả việc triển khai của từng cấp. Khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh, kịp thời trong thực thi công vụ; có cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung theo đúng tinh thần Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị.

- Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Tinh thần là nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, người dân, doanh nghiệp được hưởng thụ thật. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trong sạch, tận tụy, vì Nhân dân phục vụ. Nói không với tham nhũng, tiêu cực.


Thủ tướng Phạm Minh Chính, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và các đại biểu tới dự Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

(2) Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể:

Trước mắt, chúng ta cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

(2.1) Về công tác phòng chống dịch: Tiếp tục triển khai hiệu quả Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (Nghị quyết 38/NQ-CP), không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, tạo thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Quyết liệt triển khai chiến lược tiêm vaccine, nhất là cho trẻ em từ 5-11 tuổi, tiếp tục tiêm mũi thứ 3, thứ 4, hoàn thành mục tiêu mà Chính phủ và Ban chỉ đạo quốc gia đã đề ra, bảo đảm an toàn, hiệu quả, kịp thời.

(2.2) Tập trung xây dựng các kế hoạch và đầu tư cơ sở vật chất nhằm đầu tư toàn diện cho giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường xây dựng các trường đào tạo nghề nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động, nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề, đáp ứng nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư; xây dựng các trường đại học có thương hiệu trong nước và khu vực.

(2.3) Về triển khai Quy hoạch vùng ĐBSCL: Các địa phương vùng ĐBSCL cần tích cực triển khai quy hoạch vùng, coi đây là nhiệm vụ trong tâm trong thời gian tới; chủ động, quyết liệt hơn nữa trong việc triển khai các nhiệm vụ, chương trình, dự án đã được xác định trong quy hoạch; khẩn trương xây dựng, hoàn thành quy hoạch của từng địa phương.

Tinh thần là quy hoạch phải đi trước một bước, tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, sát thực tế, khả thi, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn, đồng thời tạo ra động lực mới, thu hút nguồn lực mới cho phát triển. Muốn phát triển tốt thì phải có quy hoạch tốt, vì quy hoạch tốt thì mới có chương trình, dự án tốt, có chương trình, dự án tốt thì mới có nhà đầu tư tốt.

(2.4) Về phát triển hạ tầng: Trong giai đoạn tới, cần tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông và logistic, hạ tầng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, hạ tầng giáo dục, y tế, hạ tầng chuyển đổi số, chống biến đổi khí hậu để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL. Trong đó, các tuyến cao tốc cần đi theo hướng tuyến thẳng nhất, ngắn nhất có thể, theo tinh thần "qua sông thì bắc cầu, qua núi thì đào hầm và qua đồng ruộng thì đổ đất"; không bám theo các khu dân cư để tránh phải dành chi phí lớn cho giải phóng mặt bằng, không tác động lớn tới đời sống người dân và tạo ra không gian phát triển mới. Các địa phương cần nâng cao tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường; nâng cao chất lượng quản trị, năng lực điều hành; chịu trách nhiệm đối với công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư; thúc đẩy triển khai các dự án hạ tầng được giao trên địa bàn, bảo đảm tiến độ, chất lượng. 

Đẩy mạnh và đa dạng hóa các chuỗi cung ứng, chuỗi liên kết, chuỗi sản xuất; ứng dụng khoa học công nghệ trong công nghiệp chế biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch với vùng vựa nông, thủy sản lớn nhất cả nước ở vùng ĐBSCL.

(2.5) Đẩy mạnh hợp tác công tư và giải ngân vốn đầu tư công: Các bộ, ngành, địa phương phải cụ thể hóa Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, nhất là trong đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng chiến lược. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đôn đốc, kiểm tra, giám sát chặt việc thực hiện. Đa dạng hóa nguồn tài chính, đẩy mạnh hợp tác công tư; huy động, kích hoạt mọi nguồn lực cho đầu tư, phát triển, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân có trọng tâm, trọng điểm, phát triển các mô hình: Lãnh đạo công - quản trị tư; đầu tư công - quản lý tư; đầu tư tư - sử dụng công.

(2.6) Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bình đẳng, thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. Tận dụng sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số.

Các địa phương cần tập trung nâng cao các chỉ số về cải cách hành chính, năng lực cạnh tranh, chuyển đổi số (PAPI, PAR Index, PCI, DTI…); tăng cường thu hút các dự án đầu tư từ trong và ngoài nước, tập trung vào những lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế của vùng.

(2.7) Khơi dậy và phát huy cao độ các giá trị truyền thống văn hoá, lịch sử, cách mạng hào hùng của quê hương, quan tâm đến an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Quan tâm đầu tư cho giáo dục và y tế, nhất là y tế dự phòng và y tế cơ sở, các chính sách xã hội, chăm lo các đối tượng chính sách, gia đình có công với cách mạng, Mẹ Việt Nam Anh hùng, người nghèo, trẻ em khó khăn, người yếu thế trong xã hội.

(2.8) Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; chủ động ứng phó, không để bị động, bất ngờ; giữ vững an ninh biên giới, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an ninh, an toàn, an dân. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế, phát triển mạnh kinh tế đối ngoại; tăng cường hợp tác chặt chẽ với các tỉnh biên giới.

(2.9) Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ; hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể phục vụ; bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

(2.10) Có chương trình, giải pháp cụ thể để bảo vệ môi trường; không đánh đổi môi trường để đổi lấy tăng trưởng đơn thuần. Tăng cường đổi mới và ứng dụng khoa học, công nghệ; đẩy mạnh chống biến đổi khí hậu, nhất là chống sạt, lún, xâm nhập mặn, chiều cường; bảo vệ nguồn nước, nguồn lợi thủy sản. Thúc đẩy chuyển đổi năng lượng sạch, tập trung phát triển điện gió, điện mặt trời.

(3) Một số ý kiến đối với các bộ ngành, nhà tài trợ, đối tác chiến lược và cơ quan thông tấn, báo chí:

- Các bộ ngành cần phải phối hợp chặt chẽ, thực hiện quyết liệt, thực chất, hiệu quả các Nghị quyết, quy hoạch, kế hoạch hành động về phát triển ĐBSCL theo thẩm quyền, nếu gặp khó khăn, vướng mắc thì cùng thảo luận, bàn bạc, tập trung giải quyết.

Đề nghị các đối tác phát triển, các nhà khoa học, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục chung tay, chung sức, đồng lòng, đồng hành cùng Chính phủ trong các hoạt động phát triển ĐBSCL thịnh vượng và thích ứng với biến đổi khí hậu; tích cực hỗ trợ vào cả từ quá trình xây dựng quy hoạch đến tài trợ các chương trình, dự án ODA, vay vốn ưu đãi nước ngoài nhằm triển khai thực hiện quy hoạch vùng, địa phương; nghiên cứu, tìm thấy và khai thác, tận dụng cơ hội để phát triển, tham gia sâu vào những ngành kinh tế được xác định là trọng tâm, ưu tiên của vùng trong một chiến lược mang tính dài hạn.

- Đối với các cơ quan thông tấn, báo chí: Tích cực truyền thông, quảng bá về vùng đất, con người, văn hóa, lịch sử, về tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh, thành phố nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung. Góp phần tích cực vào quảng bá du lịch, xúc tiến đầu tư cho vùng.

Tôi tin tưởng rằng với sự quyết tâm và vào cuộc quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự ủng hộ của các bạn bè quốc tế, trong thời gian tới, vùng ĐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá. ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến; thu nhập của người dân ngày một nâng cao; người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, có thể làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu, đảm bảo thích ứng, an toàn trước thiên tai; tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hợp lý; đa dạng sinh học và truyền thống văn hóa lịch sử, văn hóa sông nước, văn hóa bản địa đa dạng được duy trì và tôn tạo.

Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, tôi ghi nhận, đánh giá cao, trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự hợp tác, hỗ trợ quý báu của các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài đã quan tâm, lựa chọn Việt Nam nói chung, vùng ĐBSCL nói riêng là điểm đến hỗ trợ, đầu tư kinh doanh trên tinh thần "cùng thắng".

Tôi mong rằng, thông qua Hội nghị này, sẽ có thêm nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế quan tâm, lựa chọn và quyết định đầu tư tại vùng ĐBSCL, vì lợi ích của nhà đầu tư, doanh nghiệp, đồng thời góp phần vào sự phát triển của vùng ĐBSCL và đất nước Việt Nam.


TS. Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách Chiến lược Phát triển, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chuyên gia về chính sách nông nghiệp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Đại diện cho các nhà khoa học, các chuyên gia phát biểu tại Hội nghị, TS. Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách Chiến lược Phát triển, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chuyên gia về chính sách nông nghiệp chia sẻ, trong quá trình đổi mới thời gian qua, nổi bật lên thành công rực rỡ của lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn tiên phong; Quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long được công bố hôm nay mở ra cơ hội, tiềm năng mới cho vùng đất này.

Với định hướng đa dạng về sản xuất nông nghiệp, thời gian tới Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là vựa lúa mà còn trở thành vựa trái cây, vựa thuỷ sản của Việt Nam, đóng góp quan trọng cho an ninh lương thực thế giới.

Với 3 vùng sinh thái được xác định các giải pháp, hệ thống hạ tầng cơ sở liên kết như hiện nay, chắc chắc Đồng bằng sông Cửu Long sẽ phát triển theo hướng thuận thiên, vững bền. Đây cũng là cơ sở bảo đảm để chúng ta xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh, nông nghiệp tái tạo.

Một điểm quan trọng là chúng ta xác định được 8 vùng trung tâm đầu mối gắn với quá trình phát triển cơ sở, đây là cơ sở quan trọng để tiến hành phát triển nông nghiệp chế biến, nâng tầm giá trị cho nông sản Việt Nam. Mở ra cơ hội to lớn cho việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, làm cho Đồng bằng sông Cửu Long không còn là điểm trũng về khó khăn trong thu nhập mà thành vùng có phát triển văn hoá, du lịch mạnh mẽ, tài nguyên dồi dào.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cho chúng ta thấy đi kèm quy hoạch là cơ chế quản lý ngân sách, huy động đầu tư nước ngoài, quy chế liên kết vùng. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta biến tất cả ước mơ, bức tranh tương lại này thành hiện thực.

Thay mặt cho các nhà khoa học, TS. Đặng Kim Sơn gửi gắm, chúng ta đã có quy hoạch tốt, nhưng khó khăn nhất vẫn là thực hiện, làm thế nào để tổ chức liên kết vùng, làm thế nào để đưa hết thành phần kinh tế, các đối tác trong và ngoài nước vào đầu tư, phát triển tại địa bàn này. Trong quá trình xây dựng quy hoạch, chúng ta đã có bài học tốt qua sự tham gia của các chuyên gia Hà Lan. Hà Lan là nước phải đối đầu với thách thức nước biển dâng, nhưng hiện nay đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu nông sản.

Với quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long, chắc chắc đất nước chúng ta trong giai đoạn tới sẽ phát triển rực rỡ, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn tiên phong không chỉ về sản xuất nông nghiệp mà còn công nghiệp chế biến, kinh tế biển và phát triển con người.

Thay mặt các nhà khoa học, TS. Đặng Kim Sơn cảm ơn các chuyên qua quy hoạch, các tỉnh, thành đã đóng góp, hỗ trợ cho quá trình xây dựng quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long thành công.


Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Vương quốc Hà Lan: Việt Nam đã đặt một dấu mốc quan trọng khi phê duyệt Quy hoạch tổng thể vùng ĐBSCL, với các định hướng mang tính dài hạn, liên ngành - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu tại Hội nghị, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Vương quốc Hà Lan bày tỏ vui mừng được trở lại thành phố Cần Thơ - trung tâm của Đồng bằng sông Cửu Long trong một ngày đặc biệt khi chúng ta cùng tham dự Hội nghị Công bố Quy hoạch Tổng thể vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – bản quy hoạch có ý nghĩa vô cùng quan trọng đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt mới đây.

Bản Quy hoạch Tổng thể vùng ĐBSCL hoàn toàn phù hợp với các nội dung trong mối quan hệ song phương lâu dài của hai nước chúng ta, và đặc biệt là Thỏa thuận Đối tác Chiến lược về Nước và Biến đổi Khí hậu, và Thỏa thuận Đối tác Chiến lược về Nông nghiệp bền vững và An ninh lương thực.

Đồng bằng Hà Lan và ĐBSCL đều là những đồng bằng dễ bị tổn thương, cùng đối mặt với nhiều thách thức tương tự nhau. Hà Lan cam kết tiếp tục đồng hành, chung tay vì một tương lai tươi sáng của ĐBSCL.

Cách đây hơn 10 năm, Việt Nam đã đề nghị Hà Lan hỗ trợ xây dựng bản Kế hoạch Đồng bằng sông Cửu Long (MDP).  Bản Kế hoạch này đã được hoàn thành vào năm 2013 và được Chính phủ Việt Nam phê duyệt. Đó là cơ sở và nguồn cảm hứng để năm 2017 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 120 hướng tới một vùng ĐBSCL bền vững.

Năm nay, Việt Nam đã đặt một dấu mốc quan trọng khi phê duyệt Quy hoạch tổng thể vùng ĐBSCL, với các định hướng mang tính dài hạn, liên ngành và quy hoạch tích hợp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy phát triển xã hội, kinh tế và môi trường của ĐBSCL. Là Đại sứ Hà Lan, tôi rất tự hào vì các chuyên gia của công ty tư vấn và kỹ thuật Royal Haskoning DHV của Hà Lan đã tham gia tư vấn và đóng góp tích cực trong quá trình xây dựng Quy hoạch tổng thể vùng.

Trong thời gian tới, chúng tôi cam kết tiếp tục hợp tác với Chính phủ, khu vực tư nhân, các nhà khoa học và các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam để thực hiện thành công Quy hoạch tổng thể tích hợp nhằm giúp con người, kinh tế và thiên nhiên ở ĐBSCL phát triển mạnh mẽ.

Cam kết này có ý nghĩa gì trong thực tếThứ nhất, điều đó có nghĩa là cả hai nước cùng tiếp tục thực hiện chuyển đổi hệ thống lương thực thông qua việc phát triển các chuỗi giá trị bền vững, đặc biệt trong các lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, canh tác trong nước mặn, trồng rau, cây ăn quả, và chăn nuôi bền vững, có tính đến các thách thức hiện hữu về tài nguyên nước.

Hiện có một thực tế là rất nhiều khu đất sản xuất tại ĐBSCL đang được sử dụng ít hiệu quả so với tiềm năng nếu được sử dụng để trồng các loại cây phù hợp và có giá trị cao hơn; chúng ta cần phải chuyển đổi từ thâm canh lúa sang các loại cây rau quả có giá trị cao hơn hoặc để nuôi trồng thủy sản.

Hà Lan đã và đang hỗ trợ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng Chương trình Chuyển đổi Nông nghiệp nhằm phối hợp và thúc đẩy quá trình này cùng với các tỉnh thuộc ĐBSCL, với phương thức tiếp cận đa bên bao gồm khu vực tư nhân, khối khoa học, khối xã hội dân sự, các tổ chức quốc tế và các đối tác song phương trong việc lập chiến lược, xây dựng và thực hiện chính sách.

Dựa trên kinh nghiệm của Hà Lan, chúng tôi khuyến nghị nên làm điều đó theo nguyên tắc một mặt là thuận thiên và phù hợp với điều kiện sinh thái tự nhiên, mặt khác lấy nhu cầu của người tiêu dùng và thị trường làm nguyên tắc hàng đầu. Trên thực tế, tại tất cả các vùng sinh thái ở ĐBSCL, các công ty Hà Lan đã và đang làm việc với nông dân Việt Nam về các mô hình canh tác mới bền vững như nuôi tôm bền vững, nông nghiệp nước mặn và trồng cây ăn trái.

Thứ hai, chúng tôi cam kết hợp tác với Việt Nam áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên thông qua tái trồng rừng ngập mặn kết hợp, ví dụ như trồng rừng cùng với nuôi cua hoặc ngao, nuôi tôm… phù hợp với việc bảo tồn sự đa dạng sinh học, lưu trữ carbon và bảo vệ bờ biển.

Vành đai rừng ngập mặn và vùng ven biển ĐBSCL đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng. ĐBSCL không thể chỉ dựa vào các công trình cứng (đê biển) bởi bờ biển vẫn có thể bị xói lở và hệ thống đê cũng vẫn bị sóng biển tấn công trực tiếp.

Trong bối cảnh đó, Chính phủ Hà Lan và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cam kết hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc củng cố các khu vực ven biển của ĐBSCL và tăng khả năng chống chịu của người dân nơi đây. Hà Lan đã giao một liên minh các doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào giai đoạn đầu của quá trình xây dựng dự án phục hồi rừng ngập mặn. Chúng tôi kỳ vọng rằng với cách tiếp cận thận trọng sử dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên (NBS), Việt Nam sẽ đóng góp hơn nữa vào việc cải thiện đa dạng sinh học và giảm thiểu biến đổi khí hậu trong công tác quy hoạch tổng thể cho ĐBSCL.

Hơn thế nữa, cam kết của chúng tôi cũng có nghĩa là cùng nhau hợp tác phát triển các trung tâm vận tải, hậu cần và kinh doanh nông sản, vì điều quan trọng là giúp các sản phẩm đến được các thành phố một cách an toàn để được "bán và tiêu thụ" và tới các cảng biển để "xuất khẩu". 

Việc hình thành các trung tâm đầu mối kinh doanh nông sản ở ĐBSCL sẽ là một yếu tố quan trọng trong kế hoạch tổng thể thu gom, tổng hợp các sản phẩm nông nghiệp và thủy sản tại địa phương và gia tăng giá trị sản phẩm thông qua phát triển các trung tâm chế biến và công nghệ cũng là cùng kết hợp với các dịch vụ và các ngành công nghiệp khác. Với kiến thức và kinh nghiệm của mình trên khắp thế giới về thiết kế và phát triển các trung tâm kinh doanh nông sản như vậy, Hà Lan mong muốn được hợp tác với Việt Nam về nội dung quan trọng này.

Tương tự như vậy, đối với ngành logistics và vận tải, điều quan trọng là phải đưa các sản phẩm có giá trị cao đến các thị trường và cảng chính một cách hiệu quả và an toàn. Dự án Cảng biển nước sâu Cái Mép Hạ và trung tâm logistics trị giá 1 tỷ Euro do liên doanh Việt Nam - Hà Lan - Bỉ phát triển sẽ là một "viên gạch" quan trọng để xây dựng khả năng tiếp cận thị trường châu Âu cho tôm và trái cây từ ĐBSCL. Chúng tôi mong muốn tiếp tục hợp tác về phát triển cảng, phát triển chuỗi kho lạnh, năng lực bảo quản cũng như cải thiện năng lực đường thủy nội địa, vận tải thủy nội địa và đào tạo thủy thủ đoàn.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, quản lý tài nguyên nước sẽ vẫn là cốt lõi trong chương trình hợp tác của Hà Lan với Việt Nam để bảo vệ các vùng nước ngọt quan trọng và các khu vực ven biển, nhằm cải thiện chất lượng nước (đặc biệt liên quan đến nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản), thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý rủi ro thiên tai. Với nội dung này, cho phép tôi đề cập đến sự nghiêm trọng của sụt lún đất do khai thác nước ngầm, hiện đang gây ra nhiều ngập lụt hơn là do biến đổi khí hậu ở đồng bằng châu thổ.

Tất cả các đại biểu tham dự hội nghị hôm nay đều chung một mục tiêu: Đưa ĐBSCL thành vùng đất thích ứng phát triển kinh tế và đáng sống cho người dân của cả thế hệ hiện tại và tương lai.

Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận tổng hợp thông qua hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp bền vững và có giá trị cao, thuận thiên thông qua trồng rừng ngập mặn, khai thác cát bền vững, bằng cách phát triển các trung tâm kinh doanh nông sản để chế biến và gia tăng giá trị, và bằng cách cải thiện giao thông và hậu cần để kết nối các sản phẩm đến các thị trường toàn cầu có giá trị cao. Trên hết, đòi hỏi một cách tiếp cận theo định hướng kinh doanh mạnh mẽ để đặt khu vực tư nhân vào vị trí dẫn dắt hướng đến sự đổi mới hơn nữa, dĩ nhiên rất cần được tạo điều kiện thuận lợi từ Chính phủ và hỗ trợ từ các viện nghiên cứu.

Mục tiêu này cũng yêu cầu sự hợp tác với các đối tác quốc tế, chẳng hạn với Hà Lan. Hà Lan hiện tài trợ 50 triệu Euro thông qua các dự án của Hà Lan và các chương trình hợp tác công tư trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, nước và nông nghiệp. Và điều này về cơ bản được thúc đẩy bởi các khoản đầu tư của khu vực tư nhân Hà Lan… Tất cả nhằm hỗ trợ sự chuyển đổi bền vững cần thiết của ĐBSCL.

Tôi hy vọng rằng Quy hoạch tổng thể vùng ĐBSCL sẽ là cơ sở vững chắc và sự khích lệ cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư và hợp tác hơn nữa. Tôi tin tưởng vào tương lai của ĐBSCL. Chúng ta hãy cùng nhau hành động, hãy cùng biến quy hoạch thành hiện thực!

Quy hoạch vùng ĐBSCL thể hiện cách tiếp cận toàn Chính phủ và cam kết thúc đẩy phát triển bền vững


Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam: Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long nêu bật tư duy và tầm nhìn mới cho khu vực - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thay mặt Ngân hàng Thế giới (WB), bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam chúc mừng Chính phủ Việt Nam đã đạt được cột mốc quan trọng là công bố bản Quy hoạch rất được mong đợi cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là thành quả của cách tiếp cận mới mang tính toàn diện và chiến lược đối với sự phát triển vùng. Quy hoạch thể hiện cách tiếp cận toàn Chính phủ và cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và nâng cao khả năng thích ứng với khí hậu của Đồng bằng sông Cửu Long.

Chúng ta đều biết rằng Đồng bằng sông Cửu Long được coi là điểm nóng toàn cầu về biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh rủi ro khí hậu ngày càng gia tăng và các tác động phát triển sắp tới, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long nêu bật tư duy và tầm nhìn mới cho khu vực. Quy hoạch cũng đưa ra những cơ hội to lớn để tạo ra các giá trị mới và mang lại sự chuyển đổi, cũng như tiềm năng tăng trưởng xanh, bền vững, đồng đều và thịnh vượng lâu dài trong khu vực. Tôi thống nhất với những lĩnh vực ưu tiên và hành động dự kiến mà đại diện lãnh đạo các bộ ngành Trung ương, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu cụ thể trong các bài phát biểu.

Chuyển từ tầm nhìn và quy hoạch sang thực hiện luôn là một thách thức, và đã có một số xu hướng có thể nhận thấy cần được giải quyết để thúc đẩy quá trình chuyển đổi kinh tế của Đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ, mặc dù trước đây vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có đóng góp lớn cho nền kinh tế của đất nước, hiện nay đây là vùng duy nhất trên cả nước có tỉ lệ các huyện có tỉ lệ hộ nghèo trên mức trung bình cả nước tăng lên trong giai đoạn 2015-2019. Điều này càng thêm phức tạp như chúng ta đã biết bởi cuộc khủng hoảng kép do hạn hán vào năm 2020 và đại dịch COVID-19. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng đã chứng kiến tình trạng di cư trong những năm qua do biến đổi khí hậu. Đặc biệt, lượng người di cư từ vùng này chiếm khoảng 37% tổng số người di cư trong cả nước vào năm 2020. Nhiều ước tính cho thấy tác động ngày càng tăng của biến đổi khí hậu mỗi năm có thể gây thiệt hại cho khu vực lên tới 70 triệu USD vào mùa mưa do ngập lụt và 1,7 tỷ USD vào mùa khô do hạn mặn. Ngoài ra, các tác động dài hạn của đại dịch COVID-19, bất ổn kinh tế toàn cầu và sự bất ổn của thị trường đều khiến khu vực này phải đối mặt với những thách thức đặc biệt trong việc đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu đầy tham vọng đặt ra trong quy hoạch và góp phần vào mục tiêu của Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045.

Tôi xin nêu lên một số điểm mà tôi cho là quan trọng để các quý vị cân nhắc khi chuyển từ quy hoạch sang hành động.

Thứ nhất, đảm bảo tập trung cao độ vào hiệu quả và hiệu lực: Quy hoạch vùng cần đi kèm với một Chương trình hành động chiến lược và khả thi, trong đó xác định rõ ràng các ưu tiên đầu tư trong khung thời gian và với nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội nhất định. Với nhu cầu vốn tối thiểu dự kiến lên đến 57 tỷ USD từ nay đến năm 2030 để thực hiện các dự án đầu tư trong quy hoạch, điều quan trọng là phải có tầm nhìn khu vực, trong đó tập trung vào thực hiện những hành động mang tính cấp bách và mang lại tác động to lớn. Điều này có nghĩa là cần đảm bảo các nguồn lực tài chính hiện có được sử dụng hiệu quả hơn, tối đa hóa các đồng lợi ích về xã hội và môi trường. Trên cơ sở Quy hoạch vùng, tôi mong các quý vị tiếp tục sắp xếp thứ tự ưu các dự án đầu tư cấp vùng, phân bổ ngân sách để chuẩn bị các dự án đã lên kế hoạch và đơn giản hóa các quy trình phê duyệt để nâng cao tính sẵn sàng, và đảm bảo quyền làm chủ cũng như trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện các dự án ưu tiên. Tôi cũng vui mừng nhận thấy Chính phủ đã chú trọng huy động sự tham gia của khu vực tư nhân và tôi đặc biệt khuyến khích các quý vị sớm ban hành các quy định pháp lý và cơ chế thể chế cần thiết để tăng cường nguồn vốn tư nhân.

Thứ hai, đảm bảo sự phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang: Việc thực hiện quy hoạch sẽ đòi hỏi cách tiếp cận toàn bộ chính phủ. Cần có chỉ đạo rõ ràng và thống nhất về vai trò và trách nhiệm của tất cả các bên liên quan chính, đồng thời đảm bảo sự tham gia và phối hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan và giữa các cấp quản lý. Ở cấp Trung ương, cấp địa phương và cấp ngành, các cải cách thể chế và chính sách để tiếp tục tăng cường điều phối vùng, bao gồm nhấn mạnh nhiệm vụ của Hội đồng Điều phối vùng trong việc sắp xếp thứ tự ưu tiên và thực hiện các dự án cấp vùng, xây dựng nền tảng hiệu quả để ra các quyết định thực chứng và thúc đẩy các giải pháp tích hợp liên ngành trở nên ngày càng cấp thiết. Các quy hoạch cấp ngành và cấp tỉnh tiếp theo đang được lập phải đảm bảo tính kế thừa và nhất quán với quy hoạch vùng này, đồng thời cần có cơ chế và biện pháp khắc phục rõ ràng nếu tiềm ẩn những mâu thuẫn, trùng lặp hoặc hạn chế.

Thứ ba, đảm bảo quy hoạch vùng luôn được cập nhật: Quy hoạch phải thích ứng và linh hoạt trong quá trình thực hiện. Điều quan trọng là phải có một cơ chế phản hồi hiệu quả để cho phép phản ánh, đánh giá, cập nhật và điều chỉnh liên tục. Đồng thời, cần có khung giám sát và đánh giá mạnh mẽ để ghi nhận và đánh giá tiến độ thực hiện và đảm bảo chất lượng thực hiện.

Là một đối tác tin cậy lâu năm, WB rất vinh dự được hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong nhiệm vụ quan trọng là lập Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ như chúng tôi đã hợp tác với Chính phủ Australia để cung cấp các phân tích nền tảng phục vụ công tác lập Quy hoạch, xây dựng chính sách và tăng cường điều phối vùng. Chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ khi Quy hoạch được triển khai. Chúng tôi cam kết mang tri thức toàn cầu, khả năng tập hợp và nguồn lực tài chính của mình để hợp tác với toàn bộ chính phủ, các đối tác phát triển, khu vực tư nhân và các bên liên quan chính khác nhằm đạt được tăng trưởng bền vững, thích ứng với khí hậu và bao trùm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi phối hợp cùng nhau, chúng ta có thể đưa ra các quyết định chiến lược và thực hiện những hành động táo bạo và đổi mới sáng tạo để tiếp tục khai thác tiềm năng của vùng.

Tôi vui mừng thông báo với các quý vị rằng hiện nay, theo yêu cầu của Việt Nam, các cán bộ của chúng tôi đã bắt đầu chuẩn bị một chương trình tổng hợp để thực hiện Quy hoạch vùng – tăng cường khả năng thích ứng, sinh kế và tài sản của người dân tại Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời tăng năng suất và nâng cao khả năng cạnh tranh của vùng khi phải đối mặt với những thách thức ngày càng lớn về khí hậu và phát triển cùng với những tác động do đại dịch COVID-19 gây ra. Chúng tôi mong muốn được hợp tác chặt chẽ với các quý vị để thực hiện thành công Quy hoạch vùng này.

10:21 ngày 21/06/2022

Đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp, tập đoàn trong và ngoài nước phát biểu ý kiến về các lĩnh vực quan tâm đầu tư và nêu một số kiến nghị, đề xuất.

Trong quy hoạch ĐBSCL cần có dự án sản xuất lúa gạo chất lượng cao


Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời Huỳnh Văn Thòn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời Huỳnh Văn Thòn nêu ý kiến trong quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long có dự án sản xuất lúa gạo chất lượng cao mà theo Tập đoàn Lộc Trời, nếu làm tốt theo quy hoạch, xây dựng và vận hành dự án theo tư duy kinh tế ngành thì chắc chắn sẽ tạo ra sự đột phá có tính bước ngoặt cho nền kinh tế lúa gạo. Từ đó góp phần quan trọng vào an ninh lương thực, đời sống người nông dân trồng lúa ngày càng được nâng cao, nông thôn ngày càng văn minh và ngày càng đáng sống hơn.

Ông Huỳnh Văn Thòn cũng cho rằng dự án lúa gạo chất lượng cao còn góp phần đáng kể vào chương trình trung hoà khí thải mà Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra cam kết tại hội nghị COP 26.

Lãnh đạo Tập đoàn Lộc Trời đề xuất được tham gia xây dựng và vận hành dự án vì 4 yếu tố.

Cụ thể, Tập đoàn Lộc Trời tham gia hoạt động chuyên ngành nông nghiệp đến nay là 29 năm với số lượng nhân viên gần 4.000 người, trong đó có đội ngũ "ba cùng" gồm 1.300 kỹ thuật viên nông nghiệp, được nông dân tin yêu thông qua hoạt động hỗ trợ kỹ thuật mùa vụ và luôn sát cánh với bà con trên từng mảnh vườn ruộng.

Thứ hai, Lộc Trời có năng lực nghiên cứu khoa học. Hiện nay Viện Nghiên cứu nông nghiệp Lộc Trời có sự tham gia cơ hữu và hợp tác của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, tự nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu để tìm ra các giống cây trồng phù hợp nhất với điều kiện thổ nhưỡng khí hậu của từng vùng đất đồng thời được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng.

Thứ ba, Lộc Trời có năng lực xử lý mùa vụ, đảm bảo năng suất cây trồng và tuân thủ tiêu chuẩn chất lượng của các thị trường tiêu thụ. Tập đoàn thực hiện các dịch vụ bao sâu bệnh, bao năng suất và bao lợi nhuận cho nông dân trong các Hợp tác xã nông nghiệp có liên kết sản xuất với Lộc Trời.

Thứ tư, Lộc Trời có năng lực tổ chức sản xuất lớn. Hiện nay Lộc Trời đang tổ chức sản xuất trên diện tích gần 1 triệu ha lúa và rau màu. Đặc biệt ở An Giang, Lộc Trời ký thoả thuận với tỉnh An Giang tổ chức sản xuất và bao tiêu 110.000 ha trong năm 2022. Lộc Trời cũng đã đạt được thoả thuận với tỉnh Kiên Giang trong việc tổ chức sản xuất và bao tiêu lúa của nông dân toàn tỉnh Kiên Giang. Lộc Trời hiện có hơn 100 máy nông nghiệp và hơn 200 thiết bị bay không người lái phục vụ sạ giống, bón phân và phun thuốc.

Ông Huỳnh Văn Thòn nêu các yếu tố nêu trên chính là nền tảng của việc Lộc Trời được các đối tác tin cậy, chọn lựa để cung cấp nông sản, cấp tín dụng cho sản xuất nông nghiệp và hợp tác trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật nhằm mục tiêu tăng năng suất lao động trong nông nghiệp.

Về năng lực tổ chức canh tác giảm phát thải khí nhà kính, trong canh tác lúa nước, theo tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc, Lộc Trời là đơn vị đầu tiên, và duy nhất cho đến nay, trên toàn thế giới, đạt được chứng nhận cao nhất về trồng lúa bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính, thông qua việc áp dụng qui trình canh tác lúa bền vững do Liên Hợp Quốc ban hành, đó là tiêu chuẩn SRP. Số điểm tối đa của tiêu chuẩn trồng lúa bền vững SRP là 100, và Lộc Trời đã vinh dự là đơn vị đạt điểm tuyệt đối SRP100 liên tục 3 năm từ 2020-2022. Bên cạnh đó, lực lượng huấn luyện viên SRP được đào tạo và được cấp chứng chỉ quốc tế của Lộc Trời là hơn 100 người, thường xuyên thực hành trên đồng ruộng cùng với bà con nông dân.

Chủ tịch Tập đoàn Lộc Trời tin tưởng, với sự chỉ đạo của Chính phủ, Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ trở thành nguồn cung cấp lúa gạo chất lượng cao, bền vững và tạo ra lợi nhuận ổn định cho bà con nông dân thông qua tăng năng suất lao động, giải phóng lao động nông nghiệp, ổn định kinh tế, xã hội và an ninh nông thôn, đặc biệt là không chỉ đảm bảo an ninh lương thực và còn đưa Đồng bằng sông Cửu Long trở thành ruộng lúa của thế giới.

Sự phát triển của ĐBSCL cần đóng góp vào sự tự cường của Việt Nam

Đại diện JETRO (Nhật Bản) Thành phố Hồ Chí MinhTrưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) Thành phố Hồ Chí Minh Hirai Shinji - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Đại diện JETRO (Nhật Bản) Thành phố Hồ Chí MinhTrưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) Thành phố Hồ Chí Minh Hirai Shinji
Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu tại Hội nghị, Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) Thành phố Hồ Chí Minh, ông Hirai Shinji đánh giá: Hội nghị này đã được tổ chức rất kịp thời, ngay sau Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 4 được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4/6. Tại diễn đàn, tôi ấn tượng với phát biểu kết luận của Thủ tướng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, sự phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long cần phải tự chủ. Quan trọng hơn, sự phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long cũng cần đóng góp vào sự tự cường của cả Việt Nam.

Khi một phái đoàn Nhật Bản đến thăm Văn phòng JETRO Hồ Chí Minh, tôi đã bắt đầu cuộc họp với phái đoàn bằng việc chia sẻ một tài liệu mà tôi gọi là "Bản đồ kinh doanh". Theo đó, tỉ lệ dân số của Đồng bằng sông Cửu Long so với cả nước là 18,0%, bán lẻ: 19,0%, sản xuất công nghiệp 11,2%, sản xuất lúa 55,9% và sản xuất thủy sản: 56,2%. Đồng bằng sông Cửu Long đóng một vai trò thiết yếu trong nền kinh tế Việt Nam.

Quy hoạch tổng thể cũng quan trọng như la bàn của con tàu. Nếu một tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long tìm kiếm lợi nhuận cho riêng mình dưới danh nghĩa tự lực cánh sinh, chuyển ruộng lúa thành công nghiệp thì thu nhập của tỉnh có thể tăng lên trong thời gian ngắn, nhưng đây không phải là giải pháp bền vững. Bởi vì cách thức theo đuổi lợi nhuận phần nào liều lĩnh và hơi "ích kỷ này" mà không có sự quản lý chung và hướng tới mục tiêu chung sẽ khiến sự tự cường của Việt Nam gặp trở ngại.

Quy hoạch tổng thể đã thể hiện tốt quan điểm về sự phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung.

JETRO Hồ Chí Minh thực hiện khảo sát môi trường kinh doanh Đồng bằng sông Cửu Long 3 năm một lần. Năm nay, chúng tôi sẽ bắt đầu một cuộc khảo sát mới để cung cấp thông tin cập nhật nhất về sự phát triển gần đây của Đồng bằng sông Cửu Long cho các nhà đầu tư tiềm năng Nhật Bản. Hội nghị này rất quan trọng và nhiều thông tin hôm nay sẽ giúp chúng tôi có động lực tốt để bắt đầu cuộc khảo sát.

Cách đây 3 năm, tôi đã đến thăm tất cả các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Tôi ấn tượng với tiềm năng to lớn của vùng, từ hương vị trái cây ngon ngọt của tỉnh Hậu Giang mà tôi chưa từng được trải nghiệm trước đây, cho đến không khí sôi động bất ngờ ở thị xã tỉnh An Giang.

Tôi nhận ra ĐBSCL sẽ trở thành trung tâm chuyển đổi công nghệ, kinh tế - xã hội trong tương lai vì tôi đã có cơ hội gặp gỡ rất nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp độc đáo của tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Bạc Liêu. Tôi thích tinh thần của Đồng bằng sông Cửu Long, đầy hoài bão khởi nghiệp mới hay còn gọi là tinh thần xung kích vượt qua thử thách.

Tôi nói với nhiều vị khách đến trao đổi công việc tại văn phòng của mình rằng hiện tại hầu hết họ có thể không quen thuộc với tên của từng tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng trong tương lai, rất nhiều công ty của Nhật Bản khác sẽ bắt đầu hợp tác với các công ty Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực chuyển đổi kỹ thuật số. Đơn cử như Mitsui đầu tư vào Minh Phú ở tỉnh Cà Mau hay Sojitz đầu tư vào Raynan ở tỉnh Trà Vinh. Quy hoạch được kỳ vọng sẽ "khai phá" tiềm năng, mở ra cánh cửa cho giai đoạn phát triển mới.

Khi nhóm JETRO đi thực địa, chúng tôi đã ghi lại thời gian từ Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đến từng Ủy ban nhân dân của các tỉnh khác. Xa nhất tính từ Thành phố Hồ Chí Minh là tỉnh Cà Mau, 6 giờ 30 phút. Công ty chế biến cá ở Cà Mau phụ thuộc vào việc xuất khẩu bằng vận tải đường bộ đến cảng Cát Lái (TPHCM). Tôi hy vọng cơ sở hạ tầng đường bộ kết nối với TPHCM sẽ được cải thiện thông qua Quy hoạch tổng thể vùng. Ngoài ra, tôi kỳ vọng sự phát triển của Cảng Trần Đề tại tỉnh Sóc Trăng sẽ thay đổi cục diện kinh doanh của Đồng bằng sông Cửu Long.

Tôi xin chia sẻ ngắn gọn về cuộc khảo sát mới nhất của JETRO và Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại TPHCM (JCCH) đối với các công ty thành viên của JCCH, bao gồm cả các công ty ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Nhờ chuyển đổi thành công sang chính sách bình thường mới, triển vọng kinh doanh đã được cải thiện. Các nhà máy hoạt động hết công suất và 63% công ty thành viên của JCCH có kế hoạch mở rộng kinh doanh trong 1 đến 2 năm tới, tỉ lệ này cao hơn tỉ lệ 55,3% vào năm ngoái. 36% công ty thành viên của JCCH có kế hoạch duy trì hoạt động ở mức hiện tại và dưới 1% thành viên của JCCH có kế hoạch giảm quy mô hoạt động kinh doanh của họ.

Mặt khác, một số thách thức cũng hiện hữu. 91% các công ty sản xuất phải gánh chịu chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao, 88% các công ty sản xuất phải gánh chịu chi phí hậu cần tăng cao. 65% các công ty sản xuất và 51% các công ty phi sản xuất phải gánh chịu chi phí lao động tăng cao.

Các công ty Nhật Bản tham gia khảo sát cũng  quan tâm đến các vấn đề trung và dài hạn như cơ sở hạ tầng, cảng, điện và năng lượng, đảm bảo địa điểm công nghiệp với chi phí hợp lý, v.v…

Chúng tôi muốn tiếp tục được đối thoại với Chính phủ vì khẩu hiệu của JCCH là "Nhiều hơn cho Việt Nam", đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.

Ông Gabor Fluit, Tổng Giám đốc Công ty De Heus, Phó Chủ tịch Eurocham - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Gabor Fluit, Tổng Giám đốc Công ty De Heus, Phó Chủ tịch Eurocham cho biết: Sinh sống và làm việc ở Việt Nam được 14 năm, ông nhận thấy cơ sở hạ tầng của Việt Nam ngày càng tốt.

Việc triển khai Quy hoạch cần sự phối hợp giữa Chính phủ, bộ, ngành, các tỉnh miền Tây, tổ chức quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp. Đại diện Eurocham bày tỏ ủng hộ chiến lược của Bộ NN&PTNT trong phát triển hợp tác xã, phát triển chuỗi liên kết, áp dụng nông nghiệp công nghệ cao, đặc biệt ở vùng ĐBSCL. Đối với người nông dân, nếu họ thấy việc nào tốt thì họ sẽ làm theo: Bảo vệ môi trường, nâng cấp chất lượng sản phẩm, tìm cơ hội phát triển, xuất khẩu…

Ông Gabor Fluit bày tỏ hy vọng, từ 90 km cao tốc hiện hữu, thời gian tới sẽ có nhiều tuyến đường, cảng biển mới, thì chắc chắc doanh nghiệp sẽ quyết tâm đến đầu tư mới, mở rộng đầu tư vào ĐBSCL.

Phó Chủ tịch Eurocham cũng cho rằng việc đầu tư cho nguồn nhân lực rất quan trọng đối với khu vực.

10:13 ngày 21/06/2022

Phát triển nhanh, bền vững kinh tế biển, chủ động thích ứng với biển đổi khí hậu


Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Huỳnh Quốc Việt - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Phát biểu về phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn, bảo vệ bờ biển, phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau Huỳnh Quốc Việt cho biết: Cà Mau là tỉnh cực nam của Tổ quốc nằm trong khu vực ĐBSCL, là tỉnh ven biển duy nhất của Việt Nam có ba mặt giáp biển, với chiều dài bờ biển 254 km, diện tích ngư trường khoảng 80.000 km2 nên có tiềm năng phát triển nuôi trồng và khai thác thủy sản; dưới thềm lục địa có trữ lượng dầu khí và khí đốt rất lớn; có tiềm năng lớn trong phát triển năng lượng tái tạo. Đồng thời, nằm trên trung tâm vòng cung hàng hải khu vực Đông Nam Á, Cà Mau có 2 cụm đảo gần bờ nên rất thuận lợi để phát triển dịch vụ hàng hải. Tỉnh Cà Mau có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất Đồng bằng sông Cửu Long với khoảng 140.000 ha, có 02 Vườn Quốc gia, khu Ramsar, Khu dự trữ sinh quyển thế giới, được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt quy hoạch Khu du lịch quốc gia Mũi Cà Mau.

Nhận thức được vị trí, tiềm năng, lợi thế của mình, thời gian qua tỉnh Cà Mau luôn chú ý quy hoạch, đầu tư phục vụ khai thác các tiềm năng, lợi thế. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, các cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá từng bước được đầu tư; hạ tầng phục vụ du lịch đã có bước cải thiện đáng kể, dịch vụ du lịchkhu vực ven biển đang được tập trung đầu tư phát triển, một số khu du lịch ven biển đã được hình thành và đi vào hoạt động. Công tác bảo vệ và phát triển rừng được quan tâm, quyết liệt trong bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ven biển trước tác động của biến đổi khí hậu, đẩy mạnh phát triển trồng rừng thâm canh; đồng thời tích cực thục hiện các giải pháp gây bồi tạo bãi để trông khôi phục rừng, nhiều diện tích rừng phòng hộ ven biển. Về phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, Cà Mau có 16 dự án điện gió trong quy hoạch được phê duyệt với tổng côgn suất 1.000 MW, đã đầu tư hoàn thành 3 ự án đưa vào vận hành thương mại với tổng công suất 100 MW, đồng thời tỉnh đã đề xuất bổ sung vào quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 24 dự án điện gó với tổng công suất 12.000 MW.

Tuy nhiên, bên cạnh những tiềm năng, lợi thế và kết quả đạt được nêu trên, ĐBSCL nói chung, tỉnh Cà mau nói riêng vẫn còn gặp những hạn chế, khó khăn nhất định, cụ thể: (1) Là khu vực chịu nhiều tác động của tình trạng biến đổi khí hậu (sạt lở bờ biển, bờ sông, hạn hán, sụt lún đất, xâm nhập mặn…) (2) hạ tầng kỹ thuật tuy được quan tâm đầu tư nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư phát triển kinh tế vùng biển, ven biển và hải đảo (3) Tình trạng sạt lở bờ sông, bở biển, ven biển trong thời gian qua làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các khu rừng phòng hộ ven biển (4) hệ sinh thái ven biển và quanh các cụm đảm ngày càng suy giảm, o nhiễm môi trường biển có chiều hướng gia tăng; nguồn lợi thủy sản ngày càng suy kiệt…

Do đó, để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển nhanh, bền vững kinh tế biển, chủ động thích ứng với biển đổi khí hậu, theo Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 của Chính phủ, tỉnh Cà Mau đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:

Thứ nhất, về quy hoạch phát triển kinh tế biển: Để khai thác được tiềm năng, lợi thế cùng cả vùng, của từng địa phương, việc quy hoạch các ngành, lĩnh vực có Ịiên quan trong quy hoạch không gian biển có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả khai thác tiềm năng, lợi thế của từng địa phương; đề nghị quy hoạch không gian biển phải tích hợp được quy hoạch của các ngành có liên quan đến kinh tế biển của cả vùng, của từng đia phương như quy hoạch nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, quy hoạch công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp năng lượng, quy hoạch du lịch...

Thứ hai, về cơ chế, chính sách: Để Vùng ĐBSCL thu hút được đầu tư trong điều kiện còn nhiều khó khăn, hạn chế, tỉnh Cà Mau đề nghị Trung ương cho phép các tỉnh Vùng ĐBSCL nghiên cứu đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù để thu hút đầu tư hoặc cho phép các tỉnh thí điểm thực hiện các cơ chế thu hút đầu tư để qua đó đề xuất với Trung ương ban hành cơ chế, chính sách cho phù hợp, giúp cho từng tỉnh, từng tiểu vùng và cả vùng ĐBCSL tạo được sự đột phá trong thu hút đầu tư, khai thác được tiềm năng, lợi thế, bắt kịp tốc độ phát triển chung của cả nước.

Thứ ba, về kinh tế thuỷ sản: Tập trung rà soát quy hoạch lại nuôi trồng thuỷ sản, trong đó quy hoạch phát triển các khu, vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung ứng dụng công nghệ cao để tạo đột phá về sản lượng, giảm giá thành sản phẩm; quy hoạch phát triển nuôi biển

Đồng thời tập trung vào việc tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ vùng nuôi đến thị trường tiêu thụ để khắc phục hạn chế do quy mô sản quy mô sản xuất nhỏ lẻ thông qua các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã. Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho khai thác thủy sản xa bờ; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá, hoàn thiện hệ thống thông tin tàu cá, thực hiện tốt các biện pháp ngăn chặn khai thác hải sản trái phép vùng biển nước ngoài.

Thứ tư, về phát triển kết cấu hạ tầg kinh tế biển: Đề nghị ưu tiên hơn nữa việc đầu tư hạ tầng giao thông đường bộ, đường thủy nội địa, cảng biển, đường không để sớm thực hiện được việc liên kết vùng trong phát triển, nhất là tuyến đường ven biển từ TPHCM đến Kiên Giang để sớm khai thác tiềm năng của Vùng.

Thứ năm, về phát triển du lịch và dịch vụ: Đề nghị tpạ trung đầu tư phát triển hạ tầng du lịch vùng ven biển và các đảo có tiềm năng; có cơ chế khuyến khích đầu tư xây dựng một số khu nghỉ dưỡng cao cấp ven biển. Phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ, tập trung vào các ngành có tiềm năng và các ngành dịch vụ có giá trị tăng cao, từng bước phát triển dịch vụ logistic trên cơ sở phát triển và khai thác hệ thống cảng biển.

Thứ sáu, về hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu: Cần quan tâm đầu tư cho nghiên cứu khoa học về ứng phó với BĐKH để phục vụ cho công tác ứng phó trong hiện tại và áp dụng vào công tác quy hoạch trong tương lai, nhất là trong quy hoạch đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị. Đề nghị ưu tiên đầu tư các công trình phòng chống sạt lở, bảo vệ rừng, bảo vệ bờ biển; cần nghiên cứu thí điểm các cơ chể, chính sách đặc thù thu hút đầu tư các công trình phát triển kinh tế xã hội ven biển gắn với nhiệm vụ bảo vệ bờ biển.

Nhân Hội nghị này, tỉnh Cà Mau có một số kiến nghị sau:

Một là, Trung ương tiếp tục quan tâm, hỗ trợ các tỉnh, thành phố Vùng ĐBSCL giải quyết tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển đang diễn ra nghiêm trọng. Đồng thời, kiến nghị Trung ươgn ban hành cơ chế đặc thù hoặc cho phép các địa phương thí điểm thực hiện các cơ chế thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp có năng lực tham gia đầu tư xây dựng kè chống sạt lở, bảo vệ bờ biển.

Hai là, xem xét tháo gỡ vướng mắc về thủ tục đầu tư để triển khai nhanh các dự án điện gió đã có chủ trương đầu tư.

Ba là, bổ sung quy hoạch tuyến cao tốc Cần Thơ-Cà Mau đến mũi Cà Mau. Mời gọi đầu tư Cảng biển tổng hợp Hòn Khoai, nâng cấp sân bay Cà Mau đạt cấp 4C và một số công trình phù hợp bằng phương thức đối tác công tư (PPP) hoặc các hình thức hợp pháp khác phù hợp.

10:02 ngày 21/06/2022

Quy hoạch giúp liên kết chặt chẽ An Giang với khu vực và cả nước


Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Thanh Bình - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Trình bày về thực trạng triển khai quy hoạch tỉnh An Giang trong bối cảnh thực hiện quy hoạch vùng, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Nguyễn Thanh Bình cho biết: Ngày 28/02 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 287/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với những quan điểm, mục tiêu phát triển phù hợp với điều kiện tự nhiên, tiềm năng và thế mạnh, ý chí và quyết tâm vươn lên của các tỉnh, thành trong vùng nói chung và của tỉnh An Giang nói riêng.

Điều này có nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long được xác định là trung tâm kinh tế nông nghiệp xanh, sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị gia tăng cao của quốc gia, khu vực và thế giới, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn phát triển theo hướng hiện đại, sinh thái, văn minh, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước.

Các định hướng này sẽ giúp các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhận định rõ nét những phương hướng phát triển của toàn vùng, từ đó xây dựng, hoạch định những định hướng phát triển và hoàn chỉnh Quy hoạch cấp tỉnh phù hợp với chủ trương chung của toàn vùng và cả nước. Đây còn là một cơ sở vững chắc và dài hạn để dẫn dắt, kết nối các địa phương trong vùng, tạo cơ hội phát huy thế mạnh của từng địa phương, hướng đến sự phát triển chung của toàn vùng và rộng ra cả nước.

An Giang là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm vùng Đằng sông Cửu Long, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ an ninh, quốc phòng. Với đường biên giới dài gần 100 km tiếp giáp Vương quốc Campuchia, An Giang có thế mạnh đặc thù trong phát triển kinh tế biên mậu, được Thủ tướng Chính phủ chọn là một trong tám khu kinh tế trọng điểm của cả nước.

Với tiềm năng, lợi thế của mình, tỉnh An Giang tập trung đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi sản xuất ngành nông nghiệp từ chiều rộng sang chiều sâu, ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp; tiếp tục khai thác ngành dịch vụ - thương mại, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, phù hợp nhu cầu của thị trường.

Phát triển mạnh mẽ khu kinh tế cửa khẩu gắn với bảo vệ quốc phòng, an ninh; định hướng trở thành đầu mối giao thương hàng hóa, dịch vụ của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với thị trường Campuchia và các nước ASEAN; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa bản địa, phát triển du lịch tâm linh, sinh thái gắn với bảo vệ môi trường.

Thời gian qua, tỉnh An Giang luôn quán triệt công tác lập quy hoạch là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên nhằm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; An Giang đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành nghiêm túc nghiên cứu các quy định, hướng dẫn của Trung ương với mục tiêu xây dựng "Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050" có chất lượng, khả thi, hiệu quả; cân đối nguồn vốn đầu tư công ngân sách tỉnh đảm bảo cho công tác lập Quy hoạch và đầu tư cho phát triển.

Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 sẽ tích hợp và thay thế cho hơn 50 loại quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch cấp huyện. Đây là nhiệm vụ rất khó khăn và thách thức, song sẽ tạo tính thống nhất, đồng bộ trong công tác quản lý nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội; tăng cường phối hợp giữa các sở, ban, ngành cấp tỉnh; liên kết chặt chẽ giữa tỉnh An Giang với các tỉnh, thành phố trong khu vực và trên cả nước. Đồng thời phù hợp định hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Quy hoạch tỉnh An Giang sẽ là kim chỉ nam cho công tác chỉ đạo, điều hành nền kinh tế - xã hội trong thời gian tới một cách bài bản, khoa học, khai thông và tận dụng tối đa các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Hiện nay, Quy hoạch tỉnh An Giang được thực hiện rất khẩn trương, kỹ lưỡng và trong giai đoạn tổ chức lấy ý kiến góp ý của các chuyên gia trong và ngoài nước và các bộ, ngành Trung ương.

UBND tỉnh An Giang sẽ nghiêm túc tiếp thu toàn diện quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, phấn đấu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đúng theo thời gian quy định.

Đề nghị thành lập Tổ công tác triển khai quy hoạch


Thủ tướng Phạm Minh Chính trao đổi với lãnh đạo các địa phương và đại biểu tham dự Hội nghị - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Để quy hoạch tỉnh An Giang được triển khai thông suốt, hiệu quả và hiệu lực, đồng bộ với quy hoạch chung của toàn vùng, UBND tỉnh An Giang kiến nghị Chính phủ, các bộ ngành Trung ương ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó, xây dựng các chương trình, đề án; phân công nhiệm vụ cụ thể đến từng tỉnh, thành phố trong vùng để các địa phương chủ động triển khai thực hiện.

Đối với các dự án, chương trình, đề án thuộc quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương quan tâm hỗ trợ về nguồn lực đầu tư, đặc biệt đối với các dự án kết nối hạ tầng, tạo mạng lưới hạ tầng thông suốt kết nối các tỉnh, thành phố trong vùng.

Đặc biệt là các dự án lớn có ý nghĩa liên vùng như: Các tuyến cao tốc huyết mạch theo trục dọc và trục ngang kết nối các tỉnh, thành vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có dự án cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng. Phát triển hệ thống các trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với vùng chuyên canh, kết nối với các đô thị có vai trò là trung tâm cấp vùng, tiểu vùng và các đầu mối hạ tầng quốc gia, liên vùng.

09:55 ngày 21/06/2022

Phát huy vai trò, vị trí của Cần Thơ là trung tâm của vùng ĐBSCL


Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ Trần Việt Trường - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chia sẻ về vai trò, vị trí của Cần Thơ là trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong liên kết phát triển vùng, Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ Trần Việt Trường  cho biết:  Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2001-2020 và 15 năm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 17/02/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thành phố Cần Thơ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khai thác và phát huy tốt các tiềm năng, lợi thế cho phát triển; kinh tế tăng trưởng khá với chất lượng tăng trưởng được nâng lên; ngân sách tự cân đối và có điều tiết về Trung ương; từng bước trở thành một trong những động lực tăng trưởng của vùng ĐBSCL. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo, từng bước khẳng định vai trò trung tâm của vùng ĐBSCL về công nghiệp và dịch vụ. Hoàn thành trước thời hạn chương trình nông thôn mới và tiếp tục xây dựng các xã nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu. Công tác quy hoạch và phát triển đô thị được thực hiện tốt, trở thành đô thị loại I trực thuộc Trung ương với tiêu chí "sáng, xanh, sạch, đẹp"; hướng tới là đô thị hạt nhân của vùng ĐBSCL, được vinh danh, nhận "Chứng chỉ ASEAN thành phố tiềm năng để trở thành thành phố bền vững về môi trường lần thứ 3 về không khí sạch". Hợp tác quốc tế và liên kết vùng, đặc biệt là hợp tác phát triển vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL được thúc đẩy, bước đầu đạt được kết quả tích cực. Văn hóa, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ từng bước khẳng định là vai trò trung tâm vùng ĐBSCL. Bộ máy hành chính được đổi mới theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.

Tuy nhiên, thành phố Cần Thơ vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; Chưa xây dựng các trung tâm liên kết sản xuất của vùng; Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, nhất là quy hoạch đô thị thiếu bền vững; Kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ… đã  ảnh hưởng đến sự phát triển của thành phố Cần Thơ và vùng ĐBSCL.

Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII "về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".

Để phát huy "Vai trò, vị trí của Cần Thơ là trung tâm của vùng ĐBSCL trong liên kết phát triển vùng", thời gian tới thành phố Cần Thơ xác định "Ba trụ cột" quan trọng, đó là: (1) Bám sát sự chỉ đạo của Trung ương; (2) Phát huy nội lực của Cần Thơ; (3)Tăng cường liên kết để phát triển, cụ thể:

Thứ nhất, bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ban, bộ, ngành Trung ương:

Trong thời gian qua, Trung ương đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế đặc thù cho Cần Thơ, thành phố rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và các tỉnh, thành bạn trong việc phối hợp triển khai các giải pháp xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ theo tinh thần Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ theo Nghị quyết số 45/2022/QH15 của Quốc hội để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thành phố bám sát chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ với bộ, ban, ngành, Trung ương thực hiện đầu tư hệ thống giao thông đồng bộ, đường thủy, đường hàng không, đường sắt nhằm tạo sự kết nối thuận lợi giữa thành phố Cần Thơ và các tỉnh trong vùng, cũng như kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt là tuyến cao tốc theo trục dọc (Trung Lương - thành phố Cần Thơ - Cà Mau); trục ngang (Châu Đốc - thành phố Cần Thơ - Sóc Trăng). Đầu tư thành phố "sân bay", xây dựng Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của vùng ĐBSCL tại thành phố Cần Thơ; ưu tiên xây dựng hệ thống logistics hàng không, cảng sông, trung tâm logistics cấp vùng tại Cần Thơ; Đầu tư các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố (Khu CN VSIP; Khu công nghiệp Hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản, vườn ươm công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc), phát triển trung tâm khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo vùng tại Cần Thơ; phát triển khu năng lượng điện Ô Môn phù hợp quy hoạch năng lượng quốc gia. Đưa vào quy hoạch cả nước về điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp của thành phố giai đoạn 2020 - 2030.

Thứ hai, phát huy nội lực, tiềm năng, lợi thế của thành phố Cần Thơ: Cần Thơ nằm ở vị trí trung tâm ĐBSCL, với giao điểm của hai trục kinh tế - đô thị năng động nhất của vùng ĐBSCL (trục hành lang Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố Cần Thơ và trục sông Hậu); là đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường thủy, đường hàng không; là địa bàn trọng yếu, chiến lược về quốc phòng - an ninh của vùng và cả nước.

Thành phố là trung tâm phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; với hệ thống các trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề để cung ứng nguồn nhân lực cho Thành phố và các tỉnh ĐBSCL; xây dựng Người Cần Thơ "Trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch".

Thành phố tổ chức triển khai ứng dụng công nghệ số trong quản lý hành chính và ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý, điều hành; tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ cải cách hành chính tăng sức cạnh tranh...sớm triển khai Quy hoạch thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia và quy hoạch vùng ĐBSCL. Trong đó, chú trọng quy hoạch đô thị theo hướng đô thị sông nước sinh thái; đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng đô thị để Cần Thơ thật sự là đô thị hạt nhân của vùng ĐBSCL, có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu; thí điểm xây dựng đô thị thông minh và mô hình quản trị đô thị mới.

Hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; xây dựng khu công nghệ cao thành phố Cần Thơ theo định hướng trở thành khu công nghệ cao quốc gia; Phát triển nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống và mở rộng các dịch vụ mới có tiềm năng và giá trị gia tăng lớn, đặc biệt là dịch vụ logistics; xây dựng hạ tầng thương mại đồng bộ, trung tâm thương mại lớn, hiện đại; Trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế cấp vùng. Xây dựng thành phố Cần Thơ trở thành trung tâm du lịch của vùng ĐBSCL.

Chú trọng phát triển chính quyền điện tử, kinh tế số, xã hội số và tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến, công nghiệp phụ trợ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân; huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe Nhân dân; đảm bảo an sinh xã hội; xây dựng môi trường văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của thành phố và vùng ĐBSCL; giữ vững quốc phòng - an ninh…

Thứ ba, tăng cường liên kết các địa phương vùng ĐBSCL, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh khác trong cả nước; đẩy mạnh hợp tác quốc tế:

Nhằm phát huy tốt vai trò trung tâm của thành phố Cần Thơ, tăng cường liên kết, phối hợp các tỉnh ĐBSCL, các tỉnh liên vùng, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh để khẳng định Cần Thơ là cực tăng trưởng của vùng ĐBSCL, của cả nước và đóng vai trò kết nối nước ta với các nước Tiểu vùng sông Mekong mở rộng.          

Liên kết chặt chẽ và hiệu quả sẽ thu hút nhiều tập đoàn bán buôn, bán lẻ lớn, có uy tín để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, nâng cao chất lượng hàng hóa và hệ thống phân phối. Kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng thương mại, đặc biệt kêu gọi đầu tư vào các trung tâm, siêu thị, chợ đầu mối, chợ chuyên ngành,… đáp ứng nhu cầu phát triển của thành phố và vùng ĐBSCL.

Chủ động rà soát, nghiên cứu, đề xuất Trung ương các cơ chế chính sách phát triển liên kết nội vùng ĐBSCL và liên vùng, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh. Phát huy lợi thế riêng biệt, sẵn có của Cần Thơ và các tỉnh trong vùng, đặc biệt là giáo dục-đào tạo, y tế, giao thông vận tải, logistics, công nghiệp chế biến, nghiên cứu khoa học-công nghệ và du lịch. Liên kết đẩy mạnh xúc tiến đầu tư và thương mại, huy động mọi nguồn lực, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội; đào tạo nghề, tạo việc làm; nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ; xây dựng các chương trình, các tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng; tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng tham gia liên kết vùng, hội nhập quốc tế.

Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ khẳng định, Thành phố quyết tâm thực hiện hiệu quả "Ba trụ cột": (1) Bám sát sự chỉ đạo của Trung ương; (2) Phát huy nội lực của Cần Thơ; (3) Tăng cường liên kết để phát triển, sẽ là nền tảng vững chắc như kiềng 3 chân tạo đà, bứt phá trong phát triển thành phố Cần Thơ và vùng ĐBSCL. Đây cũng là nhiệm vu, giải pháp quan trọng để khẳng định "Vai trò, vị trí của Cần Thơ là trung tâm của vùng ĐBSCL trong liên kết phát triển vùng"

09:18 ngày 21/06/2022

Kết nối hệ thống thiết chế văn hoá, thể thao và du lịch

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng trình bày báo cáo về thế mạnh và khả năng thúc đẩy liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long về văn hóa, thể thao, du lịch đến năm 2030. 

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết, Chính phủ nhiệm kỳ này hết sức quan tâm đến quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long. Từ tháng 8/2021 đến tháng 3/2022, dưới sự chủ trì của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng, đã có 2 hội nghị quan trọng để bàn về những vấn đề cốt lõi, tư duy phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, nhấn mạnh vào việc quy hoạch luôn đi trước, quy hoạch có tính định hướng, quy hoạch để tạo tầm nhìn phát triển. Vì vậy, đồ án quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, lấy ý kiến các địa phương trong vùng để sớm trình Chính phủ ban hành và công bố.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho rằng đồ án này đã thể hiện thể hiện tư duy mới, giá trị mới, cơ hội mới và Quy hoạch tạo ra bước ngoặt phát triển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Đồng bằng sông Cửu Long đã có hơn 300 năm hình thành và phát triển. Ở góc độ văn hoá, vùng đất này có văn hoá đậm đặc và mang bản sắc riêng của vùng; đó là văn hóa châu thổ, văn minh sông nước, văn hoá vật thể, phi vật thể đa dạng, văn hoá Óc Eo của người Việt cổ, của các dân tộc Khmer, Chăm, Việt cùng sinh sống, chia sẻ, giao lưu. Đó là văn hoá sông nước, miệt vườn, làng nghề, ẩm thực… Tất cả những điều này tạo nên cốt cách con người vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Trong phát biểu triển khai Nghị quyết 13, Tổng Bí thư đã nói: Người dân nơi đây kết tinh nhiều đức tính quý báu: Chịu thương chịu khó; tự chủ, tự lực, tự cường; năng động, sáng tạo; kiên cường, bất khuất, vượt qua những cảnh ngộ, bất trắc của cuộc sống; luôn coi trọng nghĩa tình; sống bình dị, chân thực, chân tình, cởi mở, phóng khoáng, mang nặng tình yêu thương con người, với cảnh quan, cỏ cây, sông nước. Cũng vì nét văn hoá sông nước này đã hình thành nên cốt cách văn hoá người vùng Đông Nam Bộ.

Đây là vùng đất có nhiều di tích lịch sử, trong đó có 9 di tích quốc gia đặc biệt, 204 di tích cấp quốc gia, 618 di tích cấp tỉnh. Đây là những tài nguyên văn hoá hết sức phong phú, đa dạng, giàu có. Trong đó, điểm nhấn văn hoá là Đờn ca tài tử được UNESCO vinh danh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại. Những giá trị này tạo ra sự giữ gìn, kết nối và phát triển với hiện đại. Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh, chúng ta phải phát huy, tôn tạo, giữ gìn, kết nối để phát triển văn hoá vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, sản phẩm du lịch là sản phẩm mang dấu ấn văn hoá mà vùng Đồng bằng sông Cửu Long phải có những dấu ấn riêng.

Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đề nghị các địa phương khi triển khai đồ án cần tập trung nhiều hơn, cụ thể hoá để kết nối được hệ thống thiết chế văn hoá, thể thao và du lịch, nằm trong tổng thể quy hoạch chung của vùng. Từ đó, tạo ra các sản phẩm đặc sắc riêng có của từng địa phương, để 13 địa phương đều có sản phẩm văn hoá đặc trưng riêng của mình.

Về nội dung này, người đứng đầu Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cũng đã nêu ra một số gợi mở, ví dụ sản phẩm Con đường di sản, Liên hoan đờn ca tài tử, ẩm thực dân gian của miền Đông Nam Bộ… Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh, phải bắt đầu từ cái cụ thể thì mới tạo ra sức lan toả, có hướng phát triển chiều sâu, để chợ nổi, làng nghề, du lịch miệt vườn… luôn mang đậm dấu ấn văn hoá của một vùng đất Đông Nam Bộ. Đưa văn hoá trở thành động lực tinh thần góp phần vào sự phát triển của đồ án quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long.

09:11 ngày 21/06/2022

Phát huy vị thế, vai trò đặc biệt quan trọng là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm và trái cây lớn

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu về xúc tiến thương mại phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và định hướng phát triển năng lượng tái tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, vùng ĐBSCL có vị thế, vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm và trái cây lớn của cả nước. Đây còn là vùng có vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh, giàu tiềm năng về tài nguyên và năng lượng tái tạo, có nhiều lợi thế phát triển kinh tế biển, biên mậu và giao thương quốc tế…

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, vùng ĐBSCL vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế của mình, chưa tranh thủ được độ mở cao của nền kinh tế với nhiều hiệp định thương mại tự do (cả song phương và đa phương) đã được ký kết để thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất nông nghiệp của vùng còn manh mún, chưa có quy hoạch bảo đảm, sản xuất chưa theo tín hiệu của thị trường; nhiều loại nông sản, trái cây chưa được chế biến, chủ yếu là xuất khẩu thô và tiêu thụ qua đường tiểu ngạch, chất lượng sản phẩm không ổn định, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu; liên kết trong chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ sản phẩm còn yếu. Sản xuất công nghiệp của vùng chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành thâm dụng đất đai, lao động với giá trị thấp; phát triển năng lượng còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế…

Để khắc phục tình trạng trên, thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ cùng các bộ, ngành địa phương trong vùng tập trung thực hiện những nội dung sau:

Trước hết, Bộ sẽ khẩn trương xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về một số nhiệm vụ thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng biến đổi khí hậu để cụ thể hóa các nhiệm vụ được giao cho ngành, làm cơ sở tổ chức thực hiện đồng bộ, xuyên suốt trong toàn ngành từ trung ương đến địa phương.

Thứ hai là nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại phát triển mạnh mẽ thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, theo đó, Bộ sẽ:

(1) Chủ động tăng cường cung cấp thông tin thị trường, tăng cường kết nối tiêu thụ nông sản, hỗ trợ khai thác lợi thế của các FTA cho các địa phương, DN trong vùng; tổ chức triển khai hiệu quả Đề án Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản nhằm tiêu thụ tối đa sản phẩm nông sản.

(2) Trong khuôn khổ Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại, Bộ sẽ phối hợp với các địa phương xây dựng đề án xúc tiến thương mại quy mô cấp vùng với các hình thức xúc tiến thương mại khác nhau tại khu vực ĐBSCL, xúc tiến nông sản tại nước ngoài, quảng bá sản phẩm trên môi trường số, qua các kênh phân phối truyền thống và các sàn giao dịch thương mại điện tử.....

(3) Trong khuôn khổ Chương trình Thương hiệu quốc gia, Bộ sẽ tiếp tục hỗ trợ các địa phương quảng bá thương hiệu nông sản, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại thị trường trong nước và xuất khẩu; khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp đăng ký tham gia, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm nông sản của vùng.

(4) Phối hợp các bộ, ngành chức năng trong đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng trái cây và nông sản; làm tốt việc công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn kỹ thuật, duy trì và đảm bảo chất lượng hàng hóa đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường.

Nhân hội nghị này, Bộ trưởng Bộ Công Thương đề nghị các địa phương trong Vùng phối hợp thực hiện:

Một là, quy hoạch lại vùng trồng, vùng nuôi hợp lý; thu hút đầu tư trong sản xuất, chế biến và ứng dụng công nghệ bảo quản nhằm nâng cao chất lượng và hàm lượng giá trị của sản phẩm; xây dựng thương hiệu, mã số, vùng trồng, vùng nuôi để hàng hóa đáp ứng các tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu; Kết nối với các cơ quan chức năng của Bộ và các Thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài nắm bắt các thông tin thị trường để định hướng cho sản xuất.

Hai là, hướng dẫn doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch theo tiêu chuẩn và quy định của thương mại quốc tế. Chú trọng công tác marketing, xây dựng thương hiệu, bảo hộ những sản phẩm đặc sản từng vùng miền, có chỉ dẫn địa lý để hàng hóa ĐBSCL có chỗ đứng và đi sâu vào các khu vực thị trường thay vì tập trung chủ yếu ở các thị trường khu vực gần biên giới.

Ba là, chủ động xây dựng kế hoạch xúc tiến thương mại phù hợp với nhu cầu và năng lực xúc tiến thương mại của doanh nghiệp địa phương, chú trọng khai thác hiệu quả các công cụ số, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng CNTT trong xúc tiến thương mại; Triển khai hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại mang tính liên kết vùng theo Kế hoạch xúc tiến thương mại cấp Vùng do các địa phương đã thống nhất xây dựng với sự hướng dẫn của Bộ Công Thương;

Bốn là, tập trung quy hoạch, xây dựng hoàn thiện hệ thống hạ tầng (giao thông, vận tải, logistics…) nhằm tăng khả năng kết nối phục vụ lưu thông, tiêu thụ các sản phẩm nông sản chủ lực.

Thứ ba, v định hướng phát triển năng lượng tái tạo

Phát triển năng lượng tái tạo là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước đã được cụ thể hóa tại Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tại COP26, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và giảm 30% lượng phát khí nhà kính vào năm 2030, đây là cơ hội rất lớn cho phát triển năng lượng tái tạo của toàn vùng.

Tại Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) đã được Bộ Công Thương trình Chính phủ, dự kiến tỉ lệ công suất nguồn năng lượng gió, mặt trời chiếm tỉ trọng 18-23% tổng công suất hệ thống. Theo danh mục nguồn điện trong Dự thảo Quy hoạch điện VIII, khu vực Nam Bộ (bao gồm cả Vùng ĐBSCL) dự kiến đến năm 2030 phát triển khoảng gần 8.000 MW điện gió trên bờ và ngoài khơi; điện mặt trời phát triển giai đoạn sau năm 2030. Quy hoạch lần này chỉ quy hoạch tổng quy mô công suất theo vùng, miền, không  quy hoạch dự án cụ thể. Sau khi Quy hoạch điện VIII được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Công Thương sẽ xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Riêng các dự án mua bán điện trực tiếp và sử dụng tại chỗ, Bộ đang trình các cấp có thẩm quyền cho phép để triển khai thực hiện.

Nhân hội nghị này, Bộ Công Thương đề nghị các địa phương: (1) Sau khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt, phối hợp chặt chẽ với Bộ trong việc khảo sát, đề xuất các dự án phát triển năng lượng tái tạo phù hợp với tiềm năng và lợi thế của từng địa phương, chú trọng các dự án liên kết vùng, tích hợp vào quy hoạch tỉnh (2) Đẩy mạnh thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước để sớm trở thành trung tâm về năng lượng sạch, năng lượng tái tạo của đất nước (3) Tập trung cải cách hành chính, môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi trong giải phóng mặt bằng cho các dự án (4) Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng.

Để triển khai hiệu quả Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, về phía Hội đồng điều phối Vùng, cần có cơ chế đối thoại định kỳ để kịp thời thảo luận, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

09:04 ngày 21/06/2022

Chắc chắn ĐBSCL sẽ phát triển đột phá


Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể: Khi chúng ta công bố quy hoạch phát triển ĐBSCL, với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về phát triển ĐBSCL và qua hội nghị hôm nay, trong một vài năm tới, ĐBSCL sẽ là một trong những khu vực tăng trưởng lớn của đất nước - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thể trình bày về kế hoạch đầu tư phát triển hạ tầng giao thông vận tải vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2025-2030:

Về kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2022-2030, Bộ GTVT xác nhận với hội nghị là Bộ đã nghiên cứu ngành giao thông để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông giúp cho ĐBSCL phát triển một cách tốt nhất. Chúng tôi nhận thấy giao thông vận tải của ĐBSCL hiện nay đang là điểm nghẽn rất lớn. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã rất tập trung đầu tư nhưng hệ thống giao thông hiện nay vẫn chưa đạt được yêu cầu. Vì thế để chuẩn bị cho nhiệm kỳ 2021-2025, trong mấy tháng vừa qua, Bộ GTVT đã rất tập trung để điều chỉnh quy hoạch giao thông, trong đó chúng tôi xác định giao thông vận tải đóng góp gì cho khu vực ĐBSCL, nhất là việc thu hút các nhà đầu tư đến với khu vực này để phát triển. Do đó, về quy hoạch chúng tôi xin báo cáo có một số điểm đột phá:

Thứ nhất, chúng tôi đã đảm bảo cho tàu 10.000 tấn đến với TP. Cần Thơ và một số cảng hiện nay, đồng thời bổ sung cảng nước sâu Trần Đề, xem như là cửa ngõ chính của ĐBSCL, để tàu 80.000-100.000 tấn có thể hoạt động khu vực này.

Thứ hai, về hàng không, ngoài sân bay Cần Thơ, chúng tôi đang nghiên cứu để nâng cấp 3 sân bay: Một là sân bay Phú Quốc, cần thiết nghiên cứu thêm đường băng; sân bay Cà Mau và Rạch Giá cũng đang trong kế hoạch nâng cấp để đảm bảo tàu bay A320 có thể đỗ được ở đây.

Về đường bộ, chúng tôi đánh giá đây là lĩnh vực hết sức cần thiết và cần kết nối cảng biển với trung tâm thành phố Cần Thơ. Do đó, trong nhiệm kỳ này, có thể nói Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Chính phủ và Quốc hội đã tập trung cho ĐBSCL rất lớn. Đến thời điểm này, chúng tôi xác định có 86.000 tỷ đồng vốn ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội thống nhất để tập trung phát triển đột phá hệ thống đường cao tốc ở khu vực này.

Hiện nay, cả vùng đồng bằng mới có 90 km đường cao tốc và chúng ta đang triển khai 30 km nữa. Như vậy, trong những năm qua, chúng ta triển khai được 120 km mà mới đạt được 90 km. Tuy nhiên trong nhiệm kỳ này, chúng tôi bố trí đầu tư 400 km đường cao tốc, gồm những trục chính kết nối TPHCM với Cần Thơ, từ Cần Thơ kết nối mũi Cà Mau. Tuyến cao tốc quan trọng nữa là An Thủ (Cao Lãnh) qua Rạch Giá. Nếu chúng ta đạt kế hoạch thì cuối nhiệm kỳ này có thể đạt 400 km đường cao tốc, cộng với khoảng 130 km hiện nay đang triển khai thì chúng ta sẽ có 500 km đường cao tốc.

Chúng tôi xác định cao tốc phải kết nối với phát triển kinh tế, do đó điểm cuối của hệ thống cao tốc này kết nối với cảng Trần Đề. Từ Cảng Trần Đề, tàu 100.000 tấn chỉ cách thành phố Cần Thơ 60 km. Với hệ thống đường cao tốc cùng cảng Trần Đề, sân bay quốc tế Cần Thơ, chúng tôi tin chắc sau nhiệm kỳ này, khu vực ĐBSCL sẽ là nơi rất thuận lợi cho phát triển kinh tế. Đặc biệt các nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể đến đây, hình thành các khu công nghiệp.

Chúng tôi đã điều chỉnh quy hoạch và Chính phủ đã đồng tình. Chúng tôi trình Quốc hội thì Quốc hội cũng biểu quyết các dự án. Nếu chúng ta thực hiện tốt thì thu hút đầu tư và tiềm năng, thế mạnh khu vực này sẽ cao, đặc biệt là tạo điều kiện cho khu vực này phát triển đột phá theo các vùng, miền.

Ngoài ra, chúng tôi cũng tập trung phát triển vận tải biển, vận tải đường thủy, vì hiện nay khu vực này đường thủy rất phát triển. Chúng tôi sẽ tổ chức vận tải ven bờ để tổ chức các cảng biển từ Bắc vào Nam, đột phá vận tải biển ở sông Tiền, sông Hậu và hai trục đường thủy kết nối TPHCM với ĐBSCL. Chúng tôi cũng đang nghiên cứu để báo cáo Chính phủ và báo cáo Quốc hội chủ trương xây dựng đường sắt kết nối TPHCM với Cần Thơ. 

Tóm lại, trong nhiệm kỳ này, có thể nói dấu ấn về GTVT sẽ rất đậm nét. Sau nhiệm kỳ này, chắc chắn ĐBSCL sẽ có tiềm năng và thế mạnh để phát triển đột phá.

Nhân hội nghị này, chúng tôi mong các nhà đầu tư quan tâm đến ĐBSCL, bởi với hệ thống giao thông mà chúng tôi vừa trình bày, chắc chắn sẽ thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Các địa phương, các tỉnh cần đồng tâm hiệp lực thực hiện các kế hoạch phát triển giao thông một cách đột phá. Nếu các tỉnh làm tốt thì chúng ta sẽ có điều kiện thu hút đầu tư tốt hơn.

Chúng tôi cũng mong nhân dân các tỉnh ĐBSCL vì sự phát triển chung của đồng bằng, thực hiện chính sách giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai có kết quả. Khi chúng ta công bố quy hoạch phát triển ĐBSCL, với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về phát triển ĐBSCL và qua hội nghị hôm nay, trong một vài năm tới, ĐBSCL sẽ là một trong những khu vực tăng trưởng lớn của đất nước.

08:48 ngày 21/06/2022

Bước ngoặc để kích hoạt kinh tế - xã hội, đánh thức tiềm năng ĐBSCL


Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan
Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan trình bày báo cáo tái cơ cấu nông nghiệp và thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Tương quan giữa Quy hoạch và Cơ cấu lại nền Nông nghiệp

Đồng bằng sông Cửu Long là không gian kinh tế đầu tiên trong cả nước thực hiện quy hoạch tích hợp cấp vùng. Hội nghị Công bố Quy hoạch và Xúc tiến Đầu tư hôm nay có ý nghĩa quan trọng, cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng đất này. Quy hoạch nhất quán quan điểm phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long bền vững, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển nền tảng văn hóa - xã hội và lấy hệ sinh thái tự nhiên, "con người" làm trung tâm. Theo nhiều chuyên gia, Quy hoạch này sẽ là bước ngoặc để kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng được kích hoạt, tiềm năng sẽ được đánh thức, nhờ những vấn đề nội tại dần được khắc phục, cơ hội mới được mở ra.

Theo đó, quy hoạch nông nghiệp hướng đến tính tổng thể, chiến lược, chứ không chỉ là "phép cộng công thức" đơn thuần. Quy hoạch có tính "mở", tính linh hoạt tương đối, để có thể chủ động thích ứng với xu thế biến đổi liên tục, không ngừng, với những câu hỏi kinh tế học từ trăm năm nay: "Sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào?" Sự điều phối theo chuỗi ngành hàng, tính liên kết vùng, tiểu vùng giữa các địa phương được chú trọng ngay đầu mùa vụ, chứ không phải chỉ tập trung xử lý khi nông sản ùn ứ sau thu hoạch. Mỗi địa phương có thể chủ động mở rộng không gian liên kết, phát triển trong không gian có sự điều phối cả vùng. Đất đai có thể manh mún, địa giới hành chính có thể bị chia cắt, nhưng không gian phát triển không thể manh mún, không gian kinh tế không thể bị chia cắt. Chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế là mệnh lệnh cấp thiết phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Văn phòng Điều phối Nông nghiệp, Nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Thành phố Cần Thơ đã đi vào hoạt động. Văn phòng  đang thực hiện vai trò điều phối tích hợp thông tin nông nghiệp cấp vùng thông qua số hoá các cơ sở dữ liệu, công tác quy hoạch sản xuất, chuẩn hoá vùng nguyên liệu, chuẩn hoá quy trình sản xuất; kết nối doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, chế biến sâu; hình thành chuỗi ngành hàng thông qua các hiệp hội ngành hàng bắt đầu từ chuỗi lúa gạo, hỗ trợ nâng cao chất lượng hợp tác xã, hình thành mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ; điều phối vận hành các công trình thuỷ lợi đảm bảo đồng bộ toàn hệ thống. Ngoài ra, cũng sẽ hỗ trợ điều phối các dự án tài trợ quốc tế có tính liên tỉnh, liên vùng, kết hợp hài hoà giữa đầu tư công trình và các giải pháp phi công trình, mở ra không gian kinh tế nông thôn. Bên cạnh đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang tích cực đàm phán, kêu gọi các dự án đầu tư hạ tầng logistic nông nghiệp, nông thôn, trong đó có chuỗi kho lạnh bảo quản nông sản cấp độ liên huyện, liên tỉnh dọc theo sông Hậu và sông Tiền.

Sản xuất nông nghiệp ít nhiều tác động đến biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo quốc gia trên thế giới, COP 26, Thủ tướng Chính phủ đã cam kết đến năm 2050 Việt Nam sẽ là quốc gia có nền kinh tế cân bằng các-bon. Nếu nói biến đổi khí hậu là một thách thức, thì từ góc nhìn tích cực, khi giải quyết được thách thức này, lại tạo ra thương hiệu cho Đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù chịu tác động lớn của thiên nhiên, nhưng biết cách chủ động thích ứng, và phát triển một cách thông minh, hài hòa, thuận thiên.

Những mô hình nông nghiệp sinh thái, tích hợp "đa tầng, đa giá trị, thuận tự nhiên" gần đây đã xuất hiện ở nhiều địa phương trong Vùng: Mô hình kinh tế dưới tán rừng, mô hình tôm - lúa ở bán đảo Cà Mau, mô hình chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang đa canh, xen canh đã tăng thu nhập cho nông dân vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, mô hình sản xuất thích ứng với hạn mặn ở các tỉnh duyên hải, mô hình du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, nông thôn đang tạo ra nhiều hiệu ứng tích cực.

Về Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản Vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Thành phố Cần Thơ


Đồng bằng sông Cửu Long là không gian kinh tế đầu tiên trong cả nước thực hiện quy hoạch tích hợp cấp vùng. - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

 

Trước nhất, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định nhiệm vụ xây dựng "Trung tâm liên kết sản xuất chế biến tiêu thụ nông sản đồng bằng sông Cửu Long tại Thành phố Cần Thơ" có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong tổng thể phát triển của Vùng. Đây là mô hình mới, nhận được nhiều sự quan tâm, vì vậy, tháng 5 vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng với Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân Thành phố Cần Thơ tổ chức hội thảo xin ý kiến 13 tỉnh, thành về Dự thảo Đề án. Nhìn chung, đa số ý kiến quan tâm đến yêu cầu xác định cụ thể, chi tiết, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm, với vị thế kết nối mang tính liên vùng, có sức tác động sâu rộng đến sự tăng trưởng, phát triển của ngành nông nghiệp. Nhiều ý kiến cũng thảo luận chuyên sâu về cơ chế chính sách, lĩnh vực ưu tiên đầu tư, mô hình tổ chức, quản trị và cách thức, lộ trình xây dựng Trung tâm. Với trách nhiệm thẩm định và trình Thủ tướng "Quyết định về quy định chi tiết việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Trung tâm", chúng tôi sẽ tiếp tục cùng với Uỷ ban nhân dân Thành phố Cần Thơ thực hiện các phần việc tiếp theo, nhằm nhanh chóng hoàn thiện Đề án, cùng các thủ tục thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 7/2022.

Để hoàn thiện Đề án đảm bảo tính khả thi, hiệu quả, mang tính thị trường cao, chúng tôi cùng với Cần Thơ tiếp tục làm rõ hơn mấy vấn đề cũng là câu hỏi đặt ra như sau.

- Thứ nhất, mô hình của Trung tâm như thế nào thì phù hợp, hiệu quả? Hoạt động theo cơ chế đầu tư công - quản trị công, đầu tư công quản trị tư hay kết hợp công tư trong đầu tư và vận hành. Tôi cũng biết có ý kiến đề xuất theo mô hình khu công nghiệp, tuy nhiên nhiều ý kiến chưa đồng tình vì vai trò đa chức năng, vừa vận hành theo thị trường của doanh nghiệp, vừa góp phần thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp cả vùng theo hướng bền vững, vươn tầm ra thế giới. Hơn nữa tính kết nối trung tâm với các vùng miền như thế nào, dự kiến giao thông (đường hàng không, đường bộ, đường thủy) mở rộng kết nối ra sao, cũng cần làm rõ thêm trong các bước tiếp theo.

Ngoài ra, cũng cần tính đến sự đa dạng về mức độ phân cực và nhu cầu kết nối của từng địa phương trong Vùng đến Trung tâm, do khác biệt về khoảng cách, sự thuận tiện trong giao thương, giao thông của từng địa phương với Thành phố Hồ Chí Minh.

- Thứ hai là các chính sách thí điểm theo Nghị quyết 45/2022/QH15 có thời hạn bao lâu? Nếu chỉ đến năm 2027 cho giai đoạn thí điểm thì có đủ sức hấp dẫn để thu hút được doanh nghiệp đầu tư vào không, vì hiện nay Đề án vẫn chưa bắt đầu triển khai. Ngoài ra, cần tính đến việc xây dựng kết cấu hạ tầng trong và bên ngoài Trung tâm?

- Thứ ba, là câu hỏi về việc khai thác, phát huy tính liên kết vùng, kết nối hiệu quả, liên tục, đồng bộ đến từng địa phương trong vùng. Cần xác định rõ đây là Trung tâm cấp Vùng đặt tại một địa phương, hay là Trung tâm của địa phương với nhiệm vụ kết nối cấp Vùng?

- Thứ tư là vấn đề lộ trình và phân kỳ đầu tư. Trong Dự thảo Đề án, kế hoạch được xây dựng đầu tư theo giai đoạn. Giả định như tại dự thảo, giai đoạn 1 là 350 ha, thì tính khả thi, hiệu quả được đánh giá như thế nào khi giai đoạn sau, diện tích đầu tư lên đến 3000 ha, thì liệu có đủ điều kiện, khả năng và nguồn lực để thực hiện không?

Về vấn đề an ninh nguồn nước và đầu tư vào thủy lợi

Sông Cửu Long chín cửa hai dòng. Nguồn nước sông Tiền, sông Hậu dồi dào, đất đai màu mỡ tạo nên thương hiệu vùng đất trù phú và hào sảng. Nhưng đấy là chuyện của những ngày đã qua. Biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, suy giảm tài nguyên nước, một số cửa sông bị bồi lắng, rồi biến mất, dòng chảy ít nhiều bị tác động bởi các công trình đập nước, hồ chứa ở thượng nguồn gây hệ luỵ sụt lún, sạt lở,… Xác định tính cấp thiết của thách thức này, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị nhấn mạnh quan điểm phát triển vùng: "lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi".

Tài nguyên nước không chỉ giới hạn ở "nước ngọt", mà còn cả "nước lợ, nước mặn". Tài nguyên nước gắn kết chặt chẽ, mật thiết với các vùng sinh thái nông nghiệp đa dạng, dựa vào nguồn nước, bao gồm: "vùng sinh thái nước ngọt, vùng sinh thái mặn - lợ, vùng chuyển tiếp ngọt lợ, ngọt - lợ luân phiên". Tinh thần "chủ động, linh hoạt" thích ứng với sự thay đổi sẽ tiếp tục mở ra dư địa, không gian phát triển mới. Như cách thức một nhà khoa học phát minh thiết bị cảm biến tích hợp trí tuệ nhân tạo, đo đạc nồng độ mặn ngọt trên dòng Cổ Chiên, Trà Vinh, vốn thay đổi khác nhau theo từng giờ trong ngày, để tính toán thời điểm bơm nước tưới tiêu tốt nhất. Như cách thức các nhà nông học, người nông dân tâm huyết kiên trì lai tạo các giống cây trồng chịu hạn, chịu mặn, mà thành công nhất là các loại giống dòng ST và nhiều giống bản địa đang được phục tráng khác. Như cách thức nhiều địa phương hợp tác với các nhà khoa học tạo ra các mô hình nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp tuần hoàn đa dạng về quy mô, dựa vào đặc điểm tự nhiên, tập quán sản xuất.

Với nguyên tắc "thuận thiên có kiểm soát", các công trình thủy lợi cấp vùng và tiểu vùng sẽ tiếp tục được khai thác hiệu quả, tổ chức quản lý, vận hành thống nhất, an toàn, phù hợp với định hướng chuyển đổi, cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tiêu biểu như hệ thống thuỷ lợi Cái Lớn – Cái Bé vừa đi vào hoạt động. Đồng thời, các giải pháp phi công trình, nâng cao năng lực cộng đồng, cải thiện sinh kế cho người dân sẽ được kết hợp hài hoà, đồng bộ.

Định hướng đầu tư vào thuỷ lợi

Áp dụng nguyên tắc "đầu tư không hối tiếc" trong triển khai thực hiện. Tiếp tục đầu tư hệ thống công trình theo mục tiêu kiểm soát mặn kèm theo hỗ trợ, bổ sung ngọt để sử dụng nước mặn thực sự là nguồn tài nguyên tại vùng chuyển đổi và vùng linh hoạt, đảm bảo tiếp tục phục vụ chuyển dịch sản xuất phù hợp đặc điểm, điều kiện theo từng vùng sinh thái. Đồng thời, tiếp tục đầu tư các công trình phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Trên cơ sở đó, sẽ chia làm 3 nhóm dự án để tính toán đầu tư như sau:

- Nhóm 1: Đầu tư các dự án, điều tiết kiểm soát mặn, cấp ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp.

- Nhóm 2: Đầu tư hệ thống trữ ngọt theo hướng mở rộng các hệ thống chứa nước hiện có, cung cấp nước sinh hoạt, trữ nước hộ gia đình cho người dân khu vực thường xuyên xảy ra xâm nhập mặn

- Nhóm 3: Đầu tư xử lý sạt lở bờ sông và củng cố hệ thống đê biển

Về xúc tiến, thu hút đầu tư liên Vùng

Một doanh nhân nước ngoài đã từng chia sẻ với tôi "Nhiều nhà đầu tư quốc tế có thể khó nhận biết chính xác từng địa phương riêng rẽ, nhưng chắc chắn đều biết đến Mekong Delta – Đồng bằng sông Cửu Long". Liên kết Vùng Đồng bằng sông Cửu Long không phải là phép tính cộng về dân số, về diện tích, về nguồn lực hữu hình của 13 tỉnh, thành phố. Hơn hết, đó là độ mở, kết nối về tư duy, kết nối các nguồn lực vô hình, vô hạn, tạo dựng mối quan hệ hài hoà giữa "Nhà nước – Thị trường – Xã hội", kiếm tìm xung lực mới, khởi tạo không gian phát triển mới.

Gần đây, nhiều Tập đoàn, doanh nghiệp lớn cũng đã triển khai những dự án quy mô có tính liên tỉnh, hứa hẹn sẽ kích hoạt tiềm năng cùng lúc cho nhiều địa phương. Đó là những tín hiệu lạc quan minh chứng cho sự sáng tạo, năng động và sức sống của Đồng bằng. Vấn đề là chúng ta cần nối kết, lan toả những giá trị đó. Khi ấy, mỗi địa phương, với điều kiện đặc thù, thế mạnh riêng biệt, sẽ đóng góp chủ động, hài hoà vào tổng thể không gian kinh tế chung. Khi ấy, Đồng bằng sẽ trở thành một thực thể kinh tế hoàn chỉnh, vận hành linh hoạt, năng động. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tích cực đàm phán, kêu gọi các dự án đầu tư hạ tầng logistic nông nghiệp, nông thôn, trong đó có chuỗi kho lạnh bảo quản nông sản cấp độ liên huyện, liên tỉnh dọc theo sông Hậu và sông Tiền.

Bằng quy hoạch và đầu tư hiệu quả, thương hiệu "Mekong Delta" rồi sẽ được nhận biết sâu sắc với hình ảnh một Đồng bằng, mặc dù chịu tác động lớn của thiên nhiên, nhưng biết cách chủ động thích ứng, vượt qua thách thức và phát triển một cách thông minh, hài hòa, thuận thiên. 

Với việc ban hành quy hoạch tổng thể một cách rõ ràng, định hướng cụ thể cùng với ưu tiên đầu tư về kết cấu hạ tầng, hậu cần, dịch vụ, các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư tư nhân sẽ cảm thấy yên tâm hơn, sẽ thấy nhiều cơ hội hơn trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau.

08:18 ngày 21/06/2022

Bức tranh toàn cảnh về thời cơ mới và vận hội mới của ĐBSCL

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng trình bày về các điểm mới nổi bật và ý nghĩa của Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và định hướng triển khai thực hiện:

Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng: Quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long là nhằm cụ thể hóa và triển khai tư duy mới, tầm nhìn mới tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2021-2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt kết quả khá toàn diện, trở thành vùng trọng điểm nông nghiệp, là trụ đỡ bảo đảm an ninh lương thực, có nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực, nhất là lúa, tôm, cá tra, trái cây. Tuy nhiên, sự phát triển của vùng còn khó khăn, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế, do nhiều nguyên nhân nội vùng và ngoại vùng.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết sách và giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của Vùng như: Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13–NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu và Nghị quyết số 78/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13–NQ/TW. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 825/QĐ-TTg về việc thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2020-2025.

Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao tại Nghị quyết số 120/NQ-CP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương trong vùng nghiên cứu, xây dựng quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 287/QĐ-TTg.

Trong quá trình lập quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan liên quan, 13 địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các đối tác phát triển; tổ chức nhiều hoạt động lấy ý kiến rộng rãi, nhất là ý kiến các chuyên gia trong nước và ngoài nước am hiểu Vùng, để xây dựng bản Quy hoạch có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Để phác họa bức tranh toàn cảnh về thời cơ mới và vận hội mới của vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh thực hiện những quyết sách nêu trên của Đảng và Nhà nước, tôi xin trình bày các nội dung về Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Kế hoạch thực hiện quy hoạch; Nguồn lực thực hiện quy hoạch; Các cơ hội đầu tư mới và việc điều phối phát triển Vùng trong thời kỳ tới.

Thứ nhất, về Quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long

Quy hoạch Đồng bằng sông Cửu Long là nhằm cụ thể hóa và triển khai tư duy mới, tầm nhìn mới tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2021-2030 và các định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; từ đó mở ra các cơ hội phát triển mới và định hình các giá trị mới cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo đó, Quy hoạch xác định các đột phá mang tính chiến lược như sau:

Thứ nhất, phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, dựa trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội – môi trường; chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên hướng tới một mô hình kinh tế xanh, lấy "con người" làm trung tâm.

Thứ hai, biến thách thức thành cơ hội, "chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn"; chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng gia tăng hiệu quả và giá trị, trong đó chú trọng huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực về con người và khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; công nghiệp năng lượng là đột phá, dịch vụ là bệ đỡ.

Thứ ba, thay đổi tư duy về an ninh lương thực từ việc phát triển nông nghiệp dựa vào cây lúa sang thủy sản - trái cây - lúa gạo phù hợp với thị trường, trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại phân vùng sản xuất dựa trên tài nguyên nước và thổ nhưỡng.

Thứ tư, chuyển đổi mô hình phát triển từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung cả về nông nghiệp, công nghiệp và đô thị; phấn đấu đến năm 2030 vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, năng động và hiệu quả cao của quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở tập trung nguồn lực đầu tư các hành lang phát triển, khu vực phát triển động lực, trung tâm đầu mối nông nghiệp được xác định trong quy hoạch.

Thứ năm, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng với vai trò bệ đỡ cho phát triển kinh tế- xã hội và thúc đẩy liên kết vùng, đặc biệt chú trọng đến phát triển hạ tầng giao thông, nhất là các tuyến kết nối với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ thông qua 2 trục cao tốc đường bộ, tuyến đường thuỷ nội địa và tuyến đường sắt nối thành phố Hồ Chí Minh với Cần Thơ trong tương lai. Phát triển tuyến đường bộ ven biển từ Tiền Giang đến Kiên Giang, gắn với kiểm soát xâm nhập mặn, sắp xếp lại dân cư, bảo đảm quốc phòng an ninh, hình thành hành lang kinh tế mở, hướng ra biển. Đến năm 2030, đầu tư xây dựng mới và nâng cấp khoảng 830 km đường bộ cao tốc; khoảng 4.000 km đường quốc lộ; 04 cảng hàng không; 13 cảng biển, 11 cụm cảng hành khách và 13 cụm cảng hàng hóa đường thủy nội địa.

Thứ sáu, tập trung phát triển hành lang đô thị công nghiệp từ Cần Thơ đến Long An kết nối với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam bộ và hệ thống 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp; phát triển hành lang kinh tế, đô thị dọc sông Tiền - sông Hậu từ An Giang đến Sóc Trăng gắn với phát triển cảng biển Trần Đề nhằm kết nối, giao thương quốc tế về đường bộ gắn với đường thủy nội địa và hàng hải.

Thứ bảy, thay đổi tư duy về khai thác, sử dụng tài nguyên nước: coi nước mặn, nước lợ là một nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt; chuyển từ đáp ứng nhu cầu sang chủ động quản lý nhu cầu về nước; khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với phân vùng chức năng của nguồn nước.

Thứ tám, chú trọng bảo tồn các cảnh quan, sinh thái, văn hóa lịch sử, văn hóa dân tộc, văn hóa sông nước đặc thù của vùng. Đặc biệt là thành lập và vận hành hàng lang đa dạng sinh học ở khu vực ven biển từ Vườn quốc gia mũi Cà Mau đến khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ; phát triển các không gian văn hóa đặc thù của vùng như văn hóa sông nước, văn hóa các cộng đồng dân tộc thiểu số với phát triển du lịch.

Thứ chín, tăng cưng liên kết phát trin giữa các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long với với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ; mở rộng giao thương với các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công nhằm khơi thông, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Toàn bộ Hồ sơ Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long được công bố tại Hội nghị ngày hôm nay, được chuyển giao cho địa phương và thông tin công khai tại Cổng thông tin quy hoạch quốc gia.

Thứ hai, về Kế hoạch thực hiện quy hoạch

Ngay sau khi quy hoạch được phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Kế hoạch thực hiện quy hoạch, bao gồm 04 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, đó là:

(1) Phát triển kinh tế nông nghiệp giá trị cao, hiệu quả cao, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, trong đó tập trung phát triển các trung tâm đầu mối, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, công nghệ cao, đảm bảo an toàn thực phẩm.

(2) Phát triển khu vực đô thị - công nghiệp động lực, trong đó tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, liên tỉnh, hệ thống logistics, hạ tầng kỹ thuật của khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các công trình nguồn và lưới điện, phát huy có hiệu quả tiềm năng về dầu khí và năng lượng tái tạo.

(3) Xây dựng môi trường sống tốt, điểm đến hấp dẫn: Xây dựng và triển khai Chương trình phát triển các điểm nguồn nước ngọt dự trữ chiến lược trên toàn vùng;  nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ giáo dục – đào tạo, y tế, du lịch có khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế tại thành phố Cần Thơ; Chương trình phát triển thương hiệu du lịch đồng bằng sông Cửu Long tầm cỡ quốc tế gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa - lịch sử; bảo tồn các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng, đa dạng sinh học biển, hải đảo.

(4) Quản lý, điều phối thực hiện quy hoạch vùng: Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo điều phối, đôn đốc, các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện thống nhất các nhiệm vụ, chương trình, dự án, đề án theo Quy hoạch.

Thứ ba, về nguồn lực thực hiện Quy hoạch

Để tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ĐBSCL, trên cơ sở kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Thường vụ quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 973 ngày 08/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26 ngày 14/09/2020 về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, trong đó quy định các tiêu chí tính điểm của Vùng ưu tiên cao hơn các Vùng khác trong cả nước.

Trong giai đoạn 2021-2025, tổng số vốn ngân sách nhà nước dự kiến hỗ trợ cho các dự án trên địa bàn do địa phương quản lý dự kiến đạt khoảng 320 nghìn tỷ đồng, tăng 23,3% so với giai đoạn 2016-2020, trong đó:

Nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương là khoảng 178 nghìn tỷ đồng; Nguồn vốn ngân sách trung ương là khoảng 82 nghìn tỷ đồng, tăng 41,2% so với giai đoạn 2016-2020; Nguồn vốn nước ngoài (ODA) là 60 nghìn tỷ đồng (trong đó bao gồm 46 nghìn tỷ đồng khoản hỗ trợ DPO), chiếm 30% tổng ODA cả nước trong giai đoạn 2021-2025, trong khi con số tương ứng giai đoạn 2016-2020 là 7,66%.

Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua một số Bộ như Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế... để triển khai các công trình dự án trong Vùng đạt khoảng 140 nghìn tỷ đồng. Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư dự kiến giai đoạn 2021-2025 của Vùng khoảng 460 nghìn tỷ đồng.

Với số vốn được bố trí như trên, sẽ hoàn thành một số công trình trọng điểm của vùng, như các tuyến đường bộ cao tốc (Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau, Châu Đốc - Cần Thơ – Sóc Trăng), các tuyến đường quốc lộ; toàn bộ tuyến đường ven biển; một số trục động lực quan trọng kết nối với TP. Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ; cảng hàng không; các công trình thủy lợi cấp nước, trữ nước, kiểm soát mặn v.v..

Trong đó, thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải và 13 tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng sông Cửu Long làm việc với nhóm 6 ngân hàng phát triển quan tâm (bao gồm: ADB, KEXIM, AFD, KfW, JICA, WB) thống nhất tài trợ khoảng 2,2 tỷ đô la để triển khai 20 dự án liên kết vùng trong giai đoạn 2021 - 2025.

Để thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc tăng cường đầu tư, tạo bước đột phá về hạ tầng trong vùng cũng như thể hiện sự cam kết của các nhà tài trợ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ tổ chức Lễ công bố cam kết tài trợ thực hiện các dự án phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 - 2025 giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các tổ chức quốc tế tại Hội nghị hôm nay.

Thứ tư, về cơ hội đầu tư tại Vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Dù đã nhận được nguồn vốn đầu tư phát triển lớn, việc thực hiện quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có thể đạt kết quả cao nhất nếu huy động thành công các dự án đầu tư từ mọi thành phần kinh tế và khơi dậy, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh mạnh mẽ của doanh nghiệp và người dân.

Với tầm nhìn, định hướng phát triển vùng được xác định rõ ràng, nhất quán, các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đang được tập trung đầu tư lớn và đồng bộ, các doanh nghiệp và nhà đầu tư có rất nhiều cơ hội mở rộng sản xuất, gia tăng đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Trong đó, các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư bao gồm: đầu tư PPP phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp kết hợp du lịch, nông nghiệp giá trị cao; công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo, các ngành hỗ trợ cho sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; công nghiệp năng lượng, đặc biệt là năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; công nghiệp công nghệ cao; chuyển đổi số; dịch vụ vận tải logistics; dịch vụ y tế, giáo dục; du lịch và bất động sản.

Thứ năm, về điều phối phát triển vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2025

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 825/QĐ-TTg ngày 12/6/2020 về việc thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó xác định rõ 04 hoạt động liên kết và 08 phương thức điều phối.

Để triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị, Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long, công tác điều phối phát triển vùng trong giai đoạn tới tập trung triển khai một số nội dung sau:

- Điều phối, liên kết trong việc triển khai lập các quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch ngành, lĩnh vực có liên quan đảm bảo thống nhất với Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được phê duyệt.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và phương án huy động nguồn lực; huy động và phân bổ vốn đầu tư đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, thiết lập hệ thống thông tin vùng; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Công tác điều phối phát triển vùng có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai thực hiện Quy hoạch vùng, thúc đẩy quá trình liên kết, hợp tác giữa các địa phương trong các chương trình dự án liên kết vùng, liên tỉnh. Qua đó, tạo nên sức mạnh tổng hợp, khai thác phát huy có hiệu quả các nguồn lực hướng đến các tầm nhìn, giá trị và lợi ích chung của toàn vùng.

Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã xác định rõ Tư duy mới - Tầm nhìn mới - Cơ hội mới - Giá trị mới cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Triển khai hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước, với quyết tâm cao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành, các địa phương trong Vùng và địa phương liên kết với Vùng, và sự ủng hộ, đồng lòng, đồng hành của các nhà tài trợ, doanh nghiệp, người dân; chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng việc thực hiện Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chắc chắn thành công.

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ đón nhận làn sóng đầu tư mới, đạt được phát triển nhanh, bền vững, bứt phá trong thời kỳ tới, người dân được hạnh phúc với một cuộc sống tốt đẹp hơn.

08:07 ngày 21/06/2022

Chính phủ nỗ lực xây dựng và phê duyệt quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long


Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn công bố Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 278/QĐ-TTg ngày 28/2/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bộ trưởng Trần Văn Sơn cho biết: Theo Nghị quyết 78/NQ-CP, Chính phủ ban hành kèm theo Nghị quyết này Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02 tháng 4 năm 2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 gồm 06 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như sau:

Một là, công tác quán triệt, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận của xã hội trong xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Hai là, tập trung, thực hiện tốt công tác hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng, trong đó tập trung hoàn thiện khung pháp lý cho liên kết vùng về tổ chức, bộ máy, nguồn lực và cơ chế, chính sách triển khai; hoàn thiện thể chế phát triển, nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; lập và ban hành các quy hoạch tỉnh trong vùng;...

Ba là, phát triển nhanh và bền vững kinh tế vùng, trong đó đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, công nghệ số, kinh tế số, kinh tế xanh,..; phát triển công nghiệp xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, chú trọng công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp; phát triển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, sinh thái, bền vững với trọng tâm là thủy sản, trái cây và lúa gạo; phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, chú trọng dịch vụ hỗ trợ phát triển công nghiệp và nông nghiệp; phát triển mạnh, đồng bộ hệ thống logistics; phát triển mạnh kinh tế biển;....

Bốn là, phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân: Bảo tồn và phát huy giá trị di dản thiên nhiên và văn hóa lịch sử, văn hóa sông nước, miệt vườn. Kết hợp phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, xây dựng nông thôn mới giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội.

Năm là, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh.

Sáu là, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. 

Các nhiệm vụ, giải pháp này được cụ thể hóa thành 47 chỉ tiêu, nhiệm vụ và dự án cụ thể, gồm 14 chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2030; 26 nhiệm vụ, đề án và 07 dự án thực hiện trong giai đoạn 2021-2030.

Còn theo Quyết định 287/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với những nội dung chính:

Một là phạm vi, ranh giới lập quy hoạch.

Hai là quan điểm, tầm nhìn, mục tiêu phát triển.

Ba là phương hướng phát triển ngành có lợi thế.

Bốn là phương án phát triển, sắp xếp, lựa chọn và phân bố nguồn lực phát triển trên lãnh thổ vùng.

Năm là phương hướng xây dựng hệ thống đô thị, nông thôn và các khu chức năng.

Sáu là phương hướng phát triển kết cấu hạ tầng.

Bảy là phương hướng bảo vệ môi trường, khai thác, bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu trên lãnh thổ vùng.

Tám là danh mục chương trình, dự án ưu tiên đầu tư và phân kỳ thực hiện

Chín là các giải pháp và nguồn lực thực hiện quy hoạch.

Quyết định cũng nêu rõ, Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là cơ sở để lập quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn, quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành trên địa bàn vùng đồng bằng sông Cửu Long.

07:35 ngày 21/06/2022

Khai mạc Triển lãm ảnh nghệ thuật "Đồng bằng sông Cửu Long - Khát vọng phát triển"



Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành và các đồng chí lãnh đạo cắt băng khai mạc Triển lãm ảnh nghệ thuật "Đồng bằng sông Cửu Long - Khát vọng phát triển".Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng và Bí thư Thành ủy Cần Thơ Lê Quang Mạnh đã cắt băng khai mạc Triển lãm ảnh nghệ thuật "Đồng bằng sông Cửu Long - Khát vọng phát triển.

Nguồn: Báo Điện Tử Chính Phủ

 
 

 

 

 
 
 

 

 

 
Tác giả:
Chia sẻ
Đã copy link