

Báo Thời Nay (Ấn phẩm của báo Nhân dân) xin giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Duy Minh (Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), Chủ tịch Liên đoàn Giao nhận Vận tải Quốc tế FIATA khu vực châu Á - Thái Bình Dương), đồng thời Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc công ty InterLOG về định hướng phát triển kinh tế-xã hội, mô hình tăng trưởng và phát huy lợi thế quốc gia.
Đại hội XIV của Đảng diễn ra trong thời điểm Việt Nam đứng trước yêu cầu phải kiến tạo tầm nhìn mới cho một quốc gia hùng cường và thịnh vượng. Đây không chỉ là sự chuyển giao nhiệm kỳ, mà còn là bước ngoặt tư duy về mô hình phát triển trong bối cảnh thế giới phân cực và cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Vị trí chiến lược trong dòng chảy thương mại toàn cầu
Bối cảnh này khiến tôi liên tưởng đến năm 1819, khi Stamford Raffles đặt nền móng đưa Singapore từ một làng chài nghèo trở thành trung tâm dịch vụ - thương mại - tài chính phục vụ cho dòng chảy thương mại toàn cầu. Tương tự, Việt Nam ngày nay cũng đang sở hữu một vị trí địa kinh tế mà không phải quốc gia nào cũng có được.
Nằm trên vành đai sản xuất công nghiệp và trục hàng hải ven biển nối Thượng Hải-Thâm Quyến-Quảng Châu của Trung Quốc với Hà Nội-Đà Nẵng-TP Hồ Chí Minh-Bangkok (Thái Lan) và có khả năng vươn sang Ấn Độ, nước ta đang trở thành một mắt xích quan trọng trong dòng chảy hàng hóa công nghiệp của khu vực. Trên “xa lộ hàng hải quốc tế” kết nối Bắc Á với Đông Nam Á, Việt Nam còn là cửa ngõ của các hành lang kinh tế trong tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS) bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar với hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc) và hoàn toàn có thể mở rộng GMS + Ấn Độ.
Đặc biệt, với tiềm năng về đất hiếm và vị trí trung gian giữa Nhật Bản-Đài Loan (Trung Quốc)-Hoa Kỳ, Việt Nam có cơ hội tiếp tục nằm trên dòng chảy bán dẫn toàn cầu. Bên cạnh đó, quy mô hàng hóa xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh đang đưa Việt Nam vào vị thế mà Hàn Quốc và Đài Loan từng có để phát triển năng lực vận tải đường biển và đường hàng không kết nối quốc tế. Việt Nam còn có vịnh Vân Phong với vị thế tự nhiên tuyệt vời để phát triển thành cảng trung chuyển và tổng kho lưu trữ dầu mỏ, khí đốt của châu Á. Tất cả những lợi thế nổi trội đó đã biến Việt Nam trở thành "ngã tư tự nhiên" của các dòng chảy thương mại và đặc biệt dòng chảy sản xuất lắp ráp công nghiệp toàn cầu.
Trong bối cảnh thế giới phân cực ngày càng rõ nét, Việt Nam cần một chiến lược phát triển độc lập, không phụ thuộc vào bất kỳ cực quyền lực nào, đồng thời biết khai thác tối đa lợi thế vị trí địa kinh tế để trở thành trung tâm kết nối của châu Á - Thái Bình Dương...
Cần một chiến lược tổng thể quốc gia
Việt Nam hôm nay cũng đứng trước cơ hội tái tạo kỳ tích tương tự bằng cách phát huy tài sản vị thế địa kinh tế chiến lược và đẩy mạnh mô hình liên kết Việt Nam - Singapore. Hiện hai quốc gia đã thiết lập Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, mở ra nền tảng hình thành “cặp trung tâm kết nối chiến lược” (Pivot Hubs) mới của ASEAN và châu Á - Thái Bình Dương, giữ vai trò đầu mối trung chuyển, dịch vụ, logistics, tài chính và thương mại giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Sự cộng hưởng này có thể tạo ra “cặp trục xoay” mới của ASEAN, góp phần định hình không gian phát triển độc lập, linh hoạt trước những biến động cạnh tranh của các nước lớn, tương tự cách nước Xiêm cuối thế kỷ 19 (Thái Lan ngày nay) từng khéo léo tạo ra vị thế trung hòa để phát triển độc lập giữa hai cường quốc thời bấy giờ là Anh và Pháp.
Với vị trí địa kinh tế chiến lược, Việt Nam có đầy đủ tiềm năng để trở thành trung tâm kết nối và sáng tạo của châu Á - Thái Bình Dương. Để hiện thực hóa khát vọng trên, theo tôi cần sớm hình thành mô hình “hệ sinh thái cảng trung chuyển - Logistics - Khu thương mại tự do FTZ” tại các khu vực có điều kiện thuận lợi. Trước tiên, có thể thí điểm tại Đà Nẵng, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Long Thành, Lạng Sơn, Lào Cai, Móng Cái, Lao Bảo, Mộc Bài… gắn với các tuyến hành lang kinh tế quốc tế. Cùng với đó, phát huy quan hệ đối tác chiến lược với nhiều quốc gia, mời gọi tham gia đồng kiến tạo một hành lang mạng lưới cảng trung chuyển châu Á - Thái Bình Dương mà Việt Nam giữ vai trò kết nối tích cực. Việc phát triển các tầng giá trị logistics xanh, hành lang kinh tế xanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số như IoT, AI, blockchain trong quản lý chuỗi cung ứng cũng là yêu cầu cấp thiết, tạo bước nhảy vọt về năng lực cạnh tranh cho các trung tâm trung chuyển, trung tâm logistics. Trên nền tảng ấy, các trung tâm chiến lược sẽ phát triển đồng bộ năm tầng chủ lực gồm thương mại, dịch vụ, logistics, tài chính và đô thị đổi mới sáng tạo, hình thành hệ sinh thái toàn diện cho các trung tâm trung chuyển quốc gia.
Ngoài ra, cần sớm xem xét sửa đổi Nghị định 163 và tiến tới xây dựng Luật Logistics & Chuỗi cung ứng, tạo khung pháp lý dài hạn cho chiến lược phát triển trung tâm kết nối. Song song với hạ tầng và thể chế, cần xây dựng chiến lược phát triển mạnh các hãng vận tải biển, vận tải hàng không và vận tải xuyên biên giới - là trụ cột kết nối quốc tế quan trọng của một quốc gia trung chuyển. Để bảo đảm tính điều phối thống nhất, có thể xem xét thành lập Ủy ban Quốc gia về Phát triển Logistics và Chuỗi cung ứng do Thủ tướng đứng đầu.
Sức mạnh của một quốc gia không nằm ở việc sở hữu lợi thế, mà ở khả năng biến lợi thế ấy thành năng lực cạnh tranh thực chất. Để phát huy hết tiềm năng chiến lược của vị trí địa kinh tế, cần coi đây là tài sản quốc gia tối thượng, được ưu tiên trong mọi quyết sách phát triển với sự chỉ đạo xuyên suốt từ các cấp cao nhất. Việc nắm bắt vận hội lịch sử này sẽ giúp Việt Nam khẳng định vị thế, hiện thực hóa khát vọng hùng cường 2045 và góp phần xây dựng tương lai độc lập, thịnh vượng, bền vững cho toàn châu Á - Thái Bình Dương.